Nghề Giáo - Giáo viên - Giáo dục

Nghề Giáo - Giáo viên - Giáo dục


Đề thi Ngữ văn 6 của Hà Nam là một cái thước đo yếu kém!

Posted: 04 Jan 2017 07:46 AM PST


LTS: Đề thi học kỳ do Sở Giáo dục và Đào tạo của một tỉnh đưa ra cần thể hiện sự chỉn chu, hạn chế tối đa những sai sót.

Gần đây, đề thi kiểm tra học kì I môn Ngữ văn lớp 6 của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nam gây xôn xao dư luận vì những lỗi do sai sót, cẩu thả.

Tác giả Tùng Sơn chia sẻ những phân tích những “điểm lạ” của đề kiểm tra này.

Tòa soạn trân trọng gửi đến độc giả bài viết!

Thời gian vừa qua, các cấp học phổ thông tiến hành kiểm tra học kì I các môn học. Cư dân mạng chia sẻ nhiều đề thi lạ. Đề thi học kì I Ngữ văn 6 của tỉnh Hà Nam là một điển hình với thiếu sót và sai đa dạng.



Đề ngữ văn lớp 6 trong kỳ thi học kỳ I tại Hà Nam.

Hết học kì I, học sinh lớp 6 cần một đề thi như thế nào?

Học sinh lớp 6 là học sinh đầu cấp, mới bước chân lên cấp Trung học cơ sở còn nhiều bỡ ngỡ với môi trường học tập, thầy cô, các môn học mới, phương pháp dạy mới.

Vì vậy việc ra một đề thi đáp ứng được đúng theo hướng đổi mới cho đối tượng học sinh lớp 6 không hề đơn giản.

Cụ thể, đề thi học kì I Ngữ văn 6 vừa phải đảm bảo yêu cầu chung với ba mức độ là "biết-thông hiểu-vận dụng" lại vừa phải đảm bảo phân hoá học sinh theo trình độ.

Vì thế, đề thi cần có câu hỏi đánh giá khả năng đọc hiểu trực tiếp về nội dung, thể loại một văn bản, vừa cần có câu hỏi bao quát được một số đơn vị kiến thức tiếng Việt mà học sinh đã học trong kì I lớp 6.

Đó là các kiến thức về cấu tạo từ, nghĩa của từ, từ loại,… 

Phần làm văn, đề bài cần đảm bảo tính vừa sức và nằm trong chương trình. Còn phần Tập làm văn sao cho các em vận dụng kiến thức đã học để viết được với cảm xúc riêng, liên hệ với cuộc sống của mình. 

Qua bài làm của học sinh, giáo viên đánh giá các em về kĩ năng viết (làm văn) chứ không phải đánh giá các em về thao tác tiếp cận và giải quyết đề bài mới lạ, khó.

Nhận xét về đề kiểm tra cuối kì I tỉnh Hà Nam.



Đề thi môn Ngữ văn lớp 6 của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nam có nhiều điểm “lạ”.

Trước hết, về phần đọc hiểu. Chỉ cần đọc lướt qua hệ thống câu hỏi, ta thấy ngay 2 trong 5 câu hỏi của phần đọc hiểu là không ổn. Đó là câu 3 và câu 5. Hãy phân tích từng câu.

Câu 3: Có mấy người góp ý về cái biển đề ở cửa hàng cá? Em có nhận xét gì về từng ý kiến.

Để trả lời ý 2 câu hỏi này, học sinh phải lần lượt nói về từng ý kiến, chẳng hạn:

– Người thứ nhất: Chê viết thừa chữ "tươi"…

– Người thứ hai: Chê viết thừa hai chữ "Ở đây" …

– Người thứ ba: Chê viết thừa hai chữ "có bán" …

– Người thứ tư: Chê chủ nhà dựng tấm biển là thừa … 

Nhưng đây là những câu trả lời theo chủ quan của người viết bài này. Còn thực tế thí sinh, là đứa trẻ 12 tuổi lớp 6 thì sẽ cảm thấy rất mơ hồ với câu hỏi này. 

Nhận xét về điều gì của các ý kiến? Nhận xét về tính đúng/sai của từng ý kiến hay nhận xét về mức độ chân tình của người đóng góp ý kiến? Câu hỏi 3 rất mơ hồ và mơ hồ.

Câu 5: Qua văn bản trên, tác giả dân gian muốn chế giễu, phê phán điều gì? Nếu nhà hàng bán cá trong truyện nhờ em làm lại cái biển, em sẽ "tiếp thu", hoặc phản bác những góp ý của bốn người như thế nào? Hoặc sẽ làm lại cái biển ra sao?

Để trả lời câu hỏi 5, học sinh cần chọn một trong ba tình huống giả tưởng để trả lời. Đó là "tiếp thu", "phản bác", "làm lại biển". Thử đặt mình vào địa vị thí sinh, chúng ta sẽ trả lời sao đây?

Nếu học sinh chọn "tiếp thu", thì có gì phải nói, vì tiếp thu ý kiến thì thực hiện như nhân vật trong truyện rồi.

Nếu học sinh chọn "phản bác", không thể có chuyện đó. Vì anh chủ hàng lần lượt xoá bỏ từng chữ thì mới lần lượt có các ý kiến tiếp theo. 

Hay nói rõ hơn, mỗi lần anh chủ hàng bớt chữ đi, người qua đường mới có cớ chê những chữ còn lại. Vì thế, sự lược bỏ của chủ hàng cá là tuân theo sự ngắn dần đi của hàng chữ một cách có lí.

Vậy nếu phản bác thì câu chuyện đã không được hình thành.

Và nếu "làm lại biển", thì có vô số đáp án, cách đề biển cho một hàng cá, giáo viên biết chấm kiểu gì. Và nghiễm nhiên, một câu hỏi khó lại trở thành một câu hỏi thí sinh nào cũng làm được. 

Về đề Tập làm văn, đúng là đây không phải đề lạ nhưng là đề khó. Không cần nói chúng ta cũng biết, không ít nội dung trong sách giáo khoa nói chung quá tải với học sinh. 

Sách Ngữ văn 6 không là một ngoại lệ. Xét về tâm sinh lí lứa tuổi, đưa nội dung làm văn theo trí tưởng tượng vào chương trình lớp 6 là quá sớm.  

Khi thực hiện chương trình, thiết nghĩ, các thầy cô giáo nên cân nhắc những nội dung quá tải khi ra đề thi.

Đề làm văn ở đây yêu cầu học sinh tưởng tượng ra cuộc trò chuyện giữa cái thước, cây bút, cái e-ke, com-pa,… và kể lại thành bài văn thì quả là quá khó. 

Thực ra đây là kiểu bài có trong chương trình, nhưng vì nó vượt khả năng của học sinh quá xa nên phụ huynh coi đó là đề dành cho học sinh giỏi là hết sức có lí.

Đề bài thiếu câu hỏi tiếng Việt là không thể chấp nhận

Nhìn vào đề thi ta không hề thấy có đơn vị kiến thức tiếng Việt. Cách lý giải của vị Phó Giám đốc Sở giáo dục và Đào đạo tỉnh Hà Nam trên báo chí là cố bao biện cho việc đã rồi.

Ông Phó Giám đốc Sở nói "không nhất thiết phải có một câu tiếng Việt tách bạch riêng và vẫn có thể đánh giá được năng lực tiếng Việt của học sinh"

Và ông còn nói giải thích thêm ý là nội dung kiến thức tiếng Việt ẩn trong bài làm của học sinh. Các em viết đúng câu, chuẩn từ, không sai chính tả, đó là đạt yêu cầu về tiếng Việt rồi.

Quả là đúng vậy. Nhưng không lẽ, suốt kì I lớp 6, học sinh học tương đối nhiều về từ loại, nghĩa của từ,… mà lại chỉ cần chấm đúng sai chính tả đã biết được học sinh có nhớ kiến thức đã học hay không.

Có ý kiến cho rằng tiếng Việt đã tích hợp trong văn bản. Thì đúng vậy, một văn bản văn học bao giờ cũng tích hợp ít nhiều ngữ liệu kiến thức tiếng Việt.

Thế nhưng, đề bài phải yêu cầu học sinh nhận biết hoặc sử dụng đơn vị kiến thức đó thì mới gọi là đề thi…

Lại lạ nữa, đề bài ở đây đáp án nằm trong câu hỏi phía sau!

Câu 3, đề bài hỏi: "Có mấy người góp ý về cái biển đề ở cửa hàng bán cá".

Câu 5, đề bài lại hỏi: "Em sẽ "tiếp thu" hay phản bác những "góp ý" của bốn người như thế nào?"

Thật lạ, mới câu trước hỏi có mấy người thì câu sau lại nói có bốn người. Không rõ những người chịu trách nhiệm về đề thi này ở Hà Nam sẽ bình luận thế nào. Và bạn đọc, chúng ta nghĩ sao về một đề thi hàng tỉnh.

Sự sai sót và thiếu hụt kiến thức trong đề cuối kì I của Hà Nam gây bất bình trong dư luận. Cha mẹ học sinh sẽ nghĩ rằng: Đến đề thi cấp Sở ra mà còn mắc sai sót vì cẩu thả như vậy, thì thực tế, đề bài của các cấp dưới nữa có chuẩn không?

Chúng ta có thể ví nôm na đề thi là một cái thước, cái thước này dùng để đo kiến thức, kĩ năng học sinh đạt được sau một học kì hay một năm, một khoá học.

Vì vậy cái thước này phải chuẩn, thật chuẩn. Thế thì cái thước (đề thi học kì) của tỉnh Hà Nam nói ở đây có đo được trình độ học sinh lớp 6 kì I vừa qua hay không? Chắc là không, vì đây là một cái thước yếu kém.



Xem nguồn

Giờ sinh hoạt chung, hay dở là do thầy cô

Posted: 04 Jan 2017 07:04 AM PST


LTS: Sau nhiều bài viết phản ánh về những giờ sinh hoạt nhàm chán và gây căng thẳng cho học sinh, tác giả Thiên Ấn chia sẻ phương pháp để học sinh thêm hứng thú với những giờ sinh hoạt chung.

Tòa soạn trân trọng gửi đến độc giả bài viết!

Sinh hoạt 15 phút đầu buổi học

Từ ngày thành lập (năm 1992) đến nay, trường THPT Huỳnh Thúc Kháng ở thành phố Quảng Ngãi là một trong ít trường phổ thông vẫn duy trì tốt sinh hoạt 15 phút đầu buổi hằng ngày.

Đã thành thói quen, nền nếp, hầu hết, giáo viên chủ nhiệm ở đây có mặt tại lớp trong 15 phút đầu buổi.

Giáo viên chủ nhiệm nắm bắt thông tin, tình hình, diễn biến của cả tập thể lớp, chấn chỉnh, nhắc nhở, uốn nắn những lệch lạc, hạn chế cũng như biểu dương, khen ngợi các việc làm hay, kết quả, thành tích tốt của các em.

Nhờ sự sâu sát, thường xuyên, quản lý chặt chẽ của các thầy, cô giáo chủ nhiệm nên tình hình học tập, rèn luyện đạo đức của học sinh ở các lớp có nhiều chuyển biến tốt.



Giờ sinh hoạt lớp hiệu quả là nhờ thầy cô liên tục sáng tạo, đổi mới. (Ảnh: Báo Giáo dục và Thời đại)

Các em cá biệt, chưa ngoan, ham chơi, chán nản học hành được giáo dục, uốn nắn, quan tâm, động viên kịp thời, những biểu hiện tiêu cực giảm dần.

Có người bảo, học sinh ở bậc trung học phổ thông, cần gì phải quản lý, đến sinh hoạt lớp thường xuyên như thế, để các em tự quản, lâu lâu giáo viên chủ nhiệm lên thăm chừng là được rồi.

Đấy là quan điểm, suy nghĩ của người ta. Còn chúng tôi thiết nghĩ, giáo viên chủ nhiệm thường xuyên đến lớp thăm nom, nhắc nhở, theo dõi, tác động, chỉ dẫn vẫn là việc làm cần thiết, nên tiếp tục phát huy hơn nữa, đặc biệt trong hoàn cảnh trường chúng tôi, một số học sinh ý thức học tập, tu dưỡng hạnh kiểm chưa tốt.

Sinh hoạt 1 tiết cuối tuần

Tiết sinh hoạt cuối tuần là quy định bắt buộc của Bộ Giáo dục và Đào tạo đối với giáo dục phổ thông, từ bậc tiểu học đến bậc trung học phổ thông.

Nhiều thầy, cô giáo ở các trường đã làm rất tốt vai trò, trách nhiệm của mình ở tiết sinh hoạt cuối tuần.

Giờ sinh hoạt có giáo án sinh hoạt lớp hẳn hoi; cách tổ chức đa dạng, nội dung phong phú, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi, mang tính giáo dục cao.

Theo đó, cần động viên, khen ngợi học sinh là chính, phê bình, kiểm điểm là phụ; học sinh hứng thú, không bị nhàm chán, hoặc có tâm lý lo lắng, sợ hãi mỗi khi đến tiết sinh hoạt.

Tuy nhiên, có không ít giáo viên chủ nhiệm còn cứng nhắc, thiếu hiểu biết tâm lý học trò… thường biến tiết sinh hoạt ấy thành tiết kể tội, mắng chửi, phê bình học sinh, tập thể lớp một cách gay gắt, thường xuyên, hiếm khi có lời khen, khích lệ đối với các em.

Nhiều học sinh, khi được hỏi, các em sợ nhất là tiết nào ở trường, đều đồng thanh trả lời là tiết sinh hoạt cuối tuần.

Sai sót nhỏ thôi nhưng cô giáo chủ nhiệm nói rất nặng nề, nghiêm trọng, cứ nhắc đi nhắc lại trong những tiết sinh hoạt tiếp theo.

Có bạn trong tuần bị mắc lỗi, biết cuối tuần thầy giáo chủ nhiệm sẽ ca bài ca phê phán và xấu hổ với các bạn trong lớp nên đành phải viện lý do nghỉ học buổi hôm đó.

Một năm học thường có 37 tuần học có 37 tiết sinh hoạt cuối tuần. Các giáo viên chủ nhiệm làm thế nào để 37 tiết sinh hoạt ấy thực sự lắng đọng, có tính định hướng tốt, tạo được tâm lý nhẹ nhàng, thỏa mái, hứng khởi trong mỗi học sinh, bớt hẳn đi sự phê bình, kể tội các em quá nhiều.

Để có được điều đó, các thầy cô giáo chủ nhiệm cần kiểm nghiệm lại mình, thấu hiểu tâm tư, cảm xúc học sinh và biết cách chuẩn bị, thiết kế thật tốt các tiết sinh hoạt lớp, luôn tạo được niềm vui, hứng thú từ các em. 

Tiết chào cờ đầu tuần

Đây là tiết mở đầu cho hoạt động giáo dục của thầy và trò trong cả tuần. Ban Giám hiệu mỗi trường có trách nhiệm chỉ đạo và tổ chức cho hoạt động của tiết này.

Báo chí gần đây từng phản ánh có một số trường học dùng tiết chào cờ chỉ để phê bình, kể tội các sai phạm lỗi lầm của học trò.

Sau những quyết định kỷ luật của Hiệu trưởng, hàng loạt học sinh có sai phạm bị đứng lên giữa hàng trăm, hàng ngàn ánh mắt của học sinh đang ngồi bên dưới tập trung, dõi theo.

Đúng là có những học sinh cá biệt, vi phạm có hệ thống, giáo dục nhiều lần mà chẳng chịu thay đổi thì cần ra quyết định kỷ luật, nêu tên trước cờ để giáo dục em đó và răn đe các em khác.

Lâu lâu mới làm việc ấy thì có tác dụng. Còn cứ sáng tiết hai đầu tuần lúc nào cũng có hàng chục em bị nêu tên với các lỗi về tác phong, hút thuốc lá, gây gổ đánh nhau… thì không nên, học sinh sẽ nhờn, bị ám ảnh về tâm lý, tinh thần.

Tình trạng học sinh hoảng sợ, mệt mỏi, căng thẳng với tiết chào cờ là có thật.

Nhà trường, Ban Giám hiệu không thể theo lối mòn, tuần nào cũng đọc tổng kết, số liệu, phê bình, khiển trách học sinh vi phạm nội quy mà cần đổi mới mạnh mẽ hình thức hoạt động tiết chào cờ theo hướng gọn nhẹ, phong phú, đa dạng về nội dung, đối tượng trình bày, phát biểu.

Mỗi tháng, có một chương trình văn nghệ, tiểu phẩm từ giáo viên, học sinh. Giai điệu, lời ca, tiếng hát, đối thoại… cất lên cảm thấy nhẹ nhàng, tươi mới, tâm hồn bay bổng.

Đan xen các đánh giá, tổng kết là những câu chuyện kể, sự việc có thật, cảm động, đầy tình yêu thương, mang tính thời sự với cách kể, cách nói truyền cảm của thầy và trò chắc chắn sẽ tạo ra sinh khí mới cho hoạt động của tiết chào cờ đầu tuần.

Học sinh sẽ đón nhận, hứng thú biết bao khi các tiết chào cờ được nhà trường, thầy cô giáo luôn biết làm mới mà không giảm đi tính giáo dục các phẩm chất, năng lực cho học trò.



Xem nguồn

Thầy giáo nói chỉ cần 3 cách sau, sinh viên sẽ buộc phải học hành tử tế

Posted: 04 Jan 2017 06:21 AM PST


LTS: Trước nghịch lý sinh viên đại học quá nhàn rỗi và rảnh việc, không chú tâm học hành, thầy giáo Trần Trí Dũng có đưa ra một số giải pháp để nâng cao chất lượng đại học.

Tòa soạn trân trọng gửi đến độc giả bài viết!

Báo điện tử Giáo dục Việt Nam ngày 28/11/2016 có đăng bài viết: “Đi học ở Việt Nam, nghịch lý càng học cao càng nhàn và rảnh việc” của tác giả Mai Ly, bài báo đã phản ánh việc học ở các trường Đại học Việt Nam quả đúng như lời dẫn của bài báo là càng học lên cao càng nhàn.

Đây là một thực trạng học đại học ở Việt Nam mà dường như đã thành một nếp truyền thống đã có từ rất lâu. Để tiện theo dõi, tôi xin tóm lược lại một số ý chính về thực trạng mà bài viết đã nêu.     

Theo đó, chơi cả năm, học một tuần. Đó là thực tế của sinh viên tại hầu hết các trường Đại học, Cao đẳng ở Việt Nam hiện nay. Sinh viên vẫn lên lớp thường xuyên nhưng không phải chỉ để chuyên tâm học tập.

Thay vào đó, nhiều sinh viên quan niệm "mỗi ngày đi học là một ngày… chơi".

Không còn các bài kiểm tra đều đặn như thời học sinh, sinh viên hiện giờ chỉ coi trọng các kỳ thi cuối kỳ và chỉ thực sự quan tâm chuyện sách vở trước mỗi kỳ thi đó.

Vì thế, chuyện sinh viên bỏ học, trốn tiết, nhờ người đi học hộ, hoặc có đến lớp thì cũng ngủ, làm việc riêng không còn quá lạ lẫm với giới sinh viên.



Sinh viên đại học ngủ trong giờ. (Ảnh: zing.vn)

Một phần nguyên nhân của thực trạng này cũng xuất phát từ quy chế học tập, thi cử ở bậc học Đại học, Cao đẳng ở nước ta.

Một sinh viên cho biết: "Học đại học nhàn hơn cấp 3 rất nhiều. Thời gian học thì ít, lại không bị kiểm tra bài cũ hay 15 phút, chỉ có giữa và cuối kì. Bọn mình chỉ thực sự ôn tập bài vở trước mỗi kì thi đó thôi. Còn bình thường thì chẳng bao giờ động đến sách vở, giáo trình".

Vì thế, trốn học là chuyện bình thường. Với nhiều sinh viên, bút vở dường như là thừa thãi bởi học thì đã có giáo trình.

Không còn quá câu nệ chuyện ghi chép, ngay cả khi nhiều giảng viên truyền đạt những kiến thức không có trong giáo trình, nhiều sinh viên ngày càng ỷ lại vào những cuốn sách in sẵn.

Nhưng giáo trình thì không thể chỉnh sửa hàng năm nên nhiều sinh viên đang tự thỏa mãn với những kiến thức từ cách đây tới cả chục năm.

Trong giờ học, sinh viên cũng không cần ghi chép tất cả lời giảng của thầy cô vào vở. Một chiếc điện thoại có tính năng ghi âm, chụp ảnh phần nội dung trình chiếu trên bảng là trợ thủ đắc lực trong giờ học.

Dựa dẫm vào đề cương và những tài liệu in sẵn, phương pháp học tập theo kiểu "nước đến chân mới nhảy" đã và đang làm lười đi một thế hệ cử nhân tương lai của đất nước. 

Nếu như cấp học phổ thông một môn học kéo dài 10 tháng thì khi lên Đại học, Cao đẳng, một môn chỉ học trong vòng 1 tháng là thi, do đó thi xong quên là chuyện bình thường đối với sinh viên.

Một bạn sinh viên chia sẻ: "Hỏi mình kiến thức cấp 3 như bài thơ này của ai, nội dung như thế nào, công thức tính gia tốc trong Vật lí… mình còn nhớ, chứ giờ hỏi về mấy môn học trên Đại học mới thi xong cách đây 2 tuần thì mình chịu".

Đó là toàn bộ bức tranh học Đại học của sinh viên Việt Nam và những hệ quả của nó.

Chính vì thế mà trong nhiều năm chúng ta đã đặt ra vấn đề chất lượng Đại học, và cũng chẳng có gì là bất ngờ khi mà nhiều cuộc thi tuyển đã không tuyển lựa được những nhân sự thực sự có năng lực đáp ứng yêu cầu công việc.

Vậy đâu là giải pháp cho thực trạng này?

Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ký Quyết định số 1981/QĐ – TTg phê duyệt Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân, nhằm hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân mới một cách phù hợp, khoa học, bảo đảm tính khả thi, liên thông và phân luồng, tạo cơ hội được học tập suốt đời của người dân.

Theo đó, các chương trình đào tạo phải bảo đảm khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu cầu về năng lực mà người học đạt được sau khi tốt nghiệp theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Cụ thể, so với trước kia, thời gian đào tạo bậc đại học đã rút ngắn từ 4 – 6 năm xuống còn 3 – 5 năm. Thời gian học cao đẳng thay vì ấn định 3 năm, nay linh động 2 – 3 năm. 

Như thế, khi thời gian đào tạo chỉ còn 3 năm không đồng nghĩa với việc cắt giảm nội dung, khối lượng kiến thức đào tạo mà sự rút ngắn này đòi hỏi cường độ học tập của sinh viên phải tăng lên.

Khi đó, buộc các giáo viên phải biết lựa chọn chương trình giảng dạy sao cho phù hợp, giáo trình cụ thể, không đi lan man như trước.

Phương thức đào tạo cũng phải thay đổi căn cốt, thay vì kiến thức hàn lâm phải gắn với những đòi hỏi thực tế của thị trường lao động.

Sự thay đổi này cũng là một động thái tích cực làm tăng chất lượng học Đại học.

Tuy nhiên, đây cũng chỉ là một tác động về mặt hình thức. Về lâu dài thì cần những giải pháp cụ thể và thiết thực hơn nhằm nâng cao chất lượng học Đại học của sinh viên hiện nay.

Vậy đâu là giải pháp thực sự cần thiết cho thực trạng này?  

Thứ nhất, cần thiết đổi mới tổng thể hệ thống giáo dục đại học nói chung. Nói đến đổi mới, đó là tổng thể các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, phương hướng và cách thức thực hiện với một vấn đề nhằm mang lại hiệu quả cao hơn và có tính chất phát triển hơn. 

Mục tiêu của giáo dục Đại học là đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo. 

Đổi mới giáo dục Đại học, trước hết là đổi mới về tư tưởng và triết lý giáo dục, đây là khâu đầu tiên được quán triệt trong các hoạt động dạy học và quản lý giáo dục.

Tiếp đó là khâu xác định mục tiêu giáo dục nhằm đào tạo ra những con người như thế nào, trên cơ sở đó cụ thể hóa và chuẩn đầu ra bậc học.

Sau các khâu trên, mới tổ chức biên soạn khung chương trình và giáo trình mới, xác định chuẩn nghề nghiệp của giảng viên, từ đó quyết định phương pháp và hình thức tổ chức dạy học.

Ở khâu này, kết hợp tổ chức đào tạo, đào tạo lại hoặc bồi dưỡng giảng viên theo định hướng đổi mới của chương trình.

Cuối cùng là xác định hình thức và phương pháp kiểm tra đánh giá. Đây là khâu cuối, khép lại một hệ thống hoạt động giáo dục chặt chẽ, là hệ quả tất yếu từ tất cả các khâu trên.

Vì thế, việc đổi mới gắn liền với khả năng cung ứng nhu cầu xã hội, tăng cường kỹ năng thực hành và ứng dụng trong thực tiễn cần thiết đặt ra đối với đào tạo Đại học.        

Đổi mới giáo dục đại học phải đảm bảo sinh viên nắm vững kiến thức chuyên môn và có kỹ năng thực hành thành thạo, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo. 

Về nội dung, giáo dục đại học phải có tính hiện đại và phát triển, bảo đảm cơ cấu hợp lý giữa kiến thức khoa học cơ bản, ngoại ngữ và công nghệ thông tin với kiến thức chuyên môn và các bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc; tương ứng với trình độ chung của khu vực và thế giới.

Từ đó, đào tạo trình độ đại học phải bảo đảm cho sinh viên có những kiến thức khoa học cơ bản và kiến thức chuyên môn tương đối hoàn chỉnh; có phương pháp làm việc khoa học; có năng lực vận dụng lý thuyết vào công tác chuyên môn.

Việc đổi mới phương pháp đào tạo trình độ trình độ đại học phải coi trọng việc nâng cao năng lực tự học, phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, từ đó tạo điều kiện cho người học tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng. 

Về mặt chương trình và giáo trình đại học, đây là nội dung thể hiện mục tiêu giáo dục đại học; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục đại học, phương pháp và hình thức đào tạo, cách thức đánh giá kết quả đào tạo phải bảo đảm yêu cầu liên thông với các chương trình giáo dục khác. 

Giáo trình giáo dục đại học cụ thể hóa yêu cầu về nội dung kiến thức, kỹ năng quy định trong chương trình giáo dục đối với mỗi môn học, ngành học, trình độ đào tạo của giáo dục đại học phải đáp ứng các yêu cầu về phương pháp giáo dục đại học. 

Với những yêu cầu trên, mục tiêu chung của giáo đại học là nghiên cứu khoa học, công nghệ tạo ra tri thức, sản phẩm mới, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế. 

Đào tạo người học phải có phẩm chất chính trị, đạo đức; có kiến thức, kỹ năng thực hành nghề nghiệp, năng lực nghiên cứu và phát triển ứng dụng khoa học và công nghệ tương xứng với trình độ đào tạo; có sức khỏe; có khả năng sáng tạo và trách nhiệm nghề nghiệp, thích nghi với môi trường làm việc; có ý thức phục vụ nhân dân. 

Từ đó, đào tạo trình độ đại học để sinh viên có kiến thức chuyên môn toàn diện, nắm vững nguyên lý, quy luật tự nhiên – xã hội, có kỹ năng thực hành cơ bản, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và giải quyết những vấn đề thuộc ngành được đào tạo. 

Đối với việc đánh giá kết quả đào tạo đại học cần theo hướng chú trọng năng lực phân tích, sáng tạo, tự cập nhật, đổi mới kiến thức; đạo đức nghề nghiệp; năng lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ; năng lực thực hành, năng lực tổ chức và thích nghi với môi trường làm việc. 

Trên cơ sở đó, giao quyền tự chủ tuyển sinh cho các cơ sở giáo dục đại học.

Ở đây, coi sự chấp nhận của thị trường lao động đối với người học là tiêu chí quan trọng để đánh giá uy tín, chất lượng của cơ sở giáo dục đại học, và là căn cứ để định hướng phát triển các cơ sở giáo dục, đào tạo và ngành nghề đào tạo. 

Thứ hai, trong quá trình giảng dạy cần có sự đổi mới về phương pháp tác nghiệp, theo đó các thầy cô giáo cần tổ chức thường xuyên các buổi thảo luận theo chuyên đề trên cơ sở nội dung đã học.

Cụ thể, các thầy cô giáo cần thường xuyên ra các chủ đề thảo luận cho sinh viên ở từng môn học theo định kỳ hàng tháng. Nội dung thảo luận là những chuyên đề cụ thể theo những chủ điểm của môn học.

Khi đó, những buổi thảo luận này sẽ tăng cường tính chủ động của sinh viên trong việc học, tăng cường khả năng làm việc theo nhóm.

Từ đó, sinh viên có sự đào sâu kiến thức đã học theo từng chủ điểm, và môn học cũng trở lên hấp dẫn hơn, kiến thức theo đó được trau dồi thường xuyên hơn. 

Thứ ba, đi liền ngay sau giải pháp trên, là sau mỗi buổi thảo luận sinh viên sẽ phải viết cụ thể những kiến thức thu lượm được thành một tham luận chuyên đề dưới dạng tiểu luận khoa học.

Vì thế, giải pháp này được tiến hành ngay sau giải pháp thứ hai. Các bản tiểu luận này sẽ được giáo viên cho điểm và lấy đó làm cơ sở đánh giá kết quả học tập của sinh viên theo từng môn học.

Đây cũng là cơ sở đặt ra để sinh viên tự giác học tập, chủ động và tăng cường khả năng nghiên cứu khoa học, có sự ứng dụng thực tiễn trên cơ sở nhận thức và những kiến thức đã được tích lũy.          

Như thế, khi tiến hành thực hiện đồng thời những giải pháp này sẽ làm tăng hiệu quả học tập của sinh viên, đời sống học hành của sinh viên được sôi động hơn.

Theo đó, sẽ không có chuyện càng học lên cao càng nhàn và không có chuyện khi thi thì mới học, để rồi khi thi xong kiên thức rơi vào quên lãng.

Khi thực hiện các giải pháp đó đòi hỏi các thầy cô giáo và các sinh viên cũng có sự nỗ lực chung, thúc đẩy hiệu quả giảng dạy và học tập.    

Trên đây là một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học và hiệu quả học tập của sinh viên hiện nay để bạn đọc quan tâm tham khảo.        

Hi vọng qua đó, chất lượng Đại học nói chung ngày càng được nâng cao, phát huy tinh thần tự giác, tính chủ động, sáng tạo của sinh viên trong học tập và nghiên cứu khoa học, từ đó ứng dụng kiến thức vào thực tiễn, để Đại học thực sự là lá cờ đầu của tri thức, quyết định sự phát triển của đất nước.

Bài viết thể hiện quan điểm, góc nhìn và các đề xuất giải pháp của riêng tác giả.



Xem nguồn

"Phải coi đầu tư cho khoa học như đầu tư mạo hiểm"

Posted: 04 Jan 2017 05:40 AM PST


 Trước những ý kiến phản ánh vướng mắc, tồn tại trong cơ chế tài chính đối với hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ (KHCN), Bộ trưởng Bộ KHCN Chu Ngọc Anh cho rằng, để giải quyết tận gốc rễ vấn đề này, phải coi đầu tư cho KHCN như đầu tư mạo hiểm.

Phát biểu tại Hội nghị tổng kết khoa học công nghệ sáng nay, 4/1, hầu hết các ý kiến đều khẳng định vai trò quan trọng của KHCN đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, tuy nhiên vẫn còn khá nhiều tồn tại, vướng mắc khiến KHCN không thực sự là động lực của sự phát triển như chủ trương của Đảng, Nhà nước.

Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Bế Xuân Trường cho rằng, Đảng, Nhà nước ta đã nhận thức từ rất sớm vai trò của KHCN, tuy nhiên, trong thực tế các giải pháp thực hiện vẫn chưa đồng bộ nên không hiệu quả, dẫn đến KHCN bị thui chột.

Để KHCN là động lực phải có cơ chế chính sách thu hút nhân tài. Những năm qua chúng ta thiếu cơ chế này nên người tài trong cơ quan nhà nước thì muốn ra ngoài còn người ở ngoài thì muốn đi nước ngoài” – ông Trường khẳng định.

Từ đó, theo ông Trường cần phải có một chính sách đồng bộ, nhất là về cơ chế tài chính để những người tài Việt Nam phát huy được, có động lực yêu đất nước, yêu Tổ quốc.

'Phải coi đầu tư cho khoa học như đầu tư mạo hiểm'
Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến phát biểu tại hội nghị sáng nay. 

Chỉ rõ hơn những vướng mắc trong cơ chế tài chính đối với KHCN, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến cho biết hiện nay cơ chế quản lý tài chính khá nhiều thủ tục rất “lằng nhằng”. Vì vậy, bà Tiến cho rằng, cần phải biến sản phẩm công nghệ thành thị trường phục vụ và thực hiện cơ chế khoán và đặt hàng nhiều hơn.

Bộ chúng tôi gần như khoán (đề tài), đặt hàng trong 6 tháng hay 1 năm phải ra sản phẩm. Việc thanh quyết toán thì có thể phải thẩm định nhưng cố gắng phải làm nhanh” – bà Tiến chia sẻ. Theo bà Tiến, nhờ hướng đi này, ngành Y tế đã thu được nhiều kết quả trong hoạt động KHCN và ứng dụng nhanh vào thực tiễn khám chữa bệnh.

GS Tạ Ngọc Tấn, Phó Chủ tịch Hội đồng Lí luận Trung ương cũng chia sẻ nhiều điểm về những bất cập trong cơ chế tài chính đối với nghiên cứu khoa học.

Theo ông Tấn, mặc dù 2 thông tư liên tịch giữa Bộ KHCN và Bộ Tài chính là Thông tư 55 (Thông tư hướng dẫn xây dựng định mức dự toán, phân bổ dự toán và quyết toán đối với nhiệm vụ KHCN – PV) và Thông tư 27 (Quy định khoán chi với nhiệm vụ KHCN – PV) đã có những cởi mở nhất định về xử lý kinh phí nhà nước trong hoạt động KHCN nhưng vẫn còn “rất khó khăn”.

Những điều khoản liên quan đến chi kinh phí mà như tôi cũng chịu đầu hàng. Dứt khoát phải có chuyên gia về tài chính mới giải quyết được. Đến bây giờ vẫn phải là các tập hồ sơ rất dày mới quyết toán được” – ông Tấn nói.

Theo ông Tấn, khi xem xét đề tài khoa học, vấn đề quan trọng không phải là đống hồ sơ quyết toán mà là kết quả nghiên cứu thông qua một hội đồng khoa học tầm cỡ. Từ đó, ông Tấn đề nghị phải đổi mới cơ chế chi tiêu tài chính sao cho đơn giản, hiệu quả và gắn với trách nhiệm của nhà khoa học.

Từ góc độ địa phương, ông Nguyễn Thanh Hùng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp cũng nêu ra những bất cập trong thủ tục hành chính trong việc tiếp cận các chính sách KHCN của doanh nghiệp, hợp tác xã và người nông dân.

Các sản phẩm nông nghiệp công nghệ muốn hưởng chính sách tín dụng ưu đãi thì phải thực hiện thủ tục hành chính qua 5 Bộ và Văn phòng Chính phủ là 6 đơn vị. Điều này làm giảm động lực của các doanh nghiệp“.

'Phải coi đầu tư cho khoa học như đầu tư mạo hiểm'
Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cho rằng cần quan niệm đầu tư cho hoạt động KHCN ít nhiều là đầu tư mạo hiểm.

Trao đổi về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ KHCN Chu Ngọc Anh khẳng định, các Thông tư 55 và Thông tư 27 là những nỗ lực lớn của Chính phủ để tháo gỡ cơ chế chính sách đối với hoạt động công nghệ.

Tuy nhiên, ông Chu Ngọc Anh cũng khẳng định, để giải quyết tận gốc rễ vấn đề này phải quan niệm đầu tư cho KHCN ít nhiều là đầu tư mạo hiểm, từ đó mới có thể xử lý căn cơ và thông thoáng được.

Trong bài phát biểu kết luận tại hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cũng nhiều lần nhận định những vướng mắc hạn chế chính đối với sự phát triển của KHCN hiện nay chính là cơ chế chính sách.

Nói về chỉ số sẵn sàng công nghệ của Việt Nam chỉ đứng thứ 92/140 quốc gia và vùng lãnh thổ. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định, điều này không phải do các nhà khoa học gây ra mà do cơ chế của nhà nước.

Trong 6 yếu tố tạo nên sự phát triển KHCN, Thủ tướng cũng nhấn mạnh 2 yếu tố thể chế, cơ chế, môi trường và năng lực kiến tạo quản trị của nhà nước cho KHCN.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đòi hỏi Việt Nam phải đổi mới, kiến tạo lại nền hành chính để phát huy vai trò của KHCN, nhất là con người và thể chế. Tinh thần chung là khai phóng mọi nguồn nhân lực sáng tạo để đưa đất nước tiến lên vững vàng” – Thủ tướng nhấn mạnh.

Không phân bổ ngân sách theo kiểu chia đều

Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến cho rằng, hiện nay, KHCN được phân bổ kinh sách 2% (tổng chi ngân sách Nhà nước) nhưng khi quyết toán ở QH thì thường KHCN dư, một số địa phương phải phân bổ ngân sách sang hoạt đông khác.

Từ đó, bà Tiến cho rằng, phân bổ ngân sách chia đều là tốt nhưng cần phải xem lại theo hướng đầu tư ra tấm ra món, có trọng điểm trọng tâm. “Cần phải ưu tiên nơi nào có nhu cầu lớn, đặc biệt có nguồn nhân lực, hệ thống phòng thí nghiệm và cơ sở nghiên cứu chứ không thể hòa vào ngân sách phát triển hạ tầng, an sinh xã hội

Bà Tiến cũng dẫn ví dụ ở các nước phát triển, ngân sách nhà nước chủ yếu dành cho các vấn đề lớn, còn lại chủ yếu là hợp đồng giữa nhà khoa học và doanh nghiệp và họ tự nuôi lấy nhau theo cơ chế tự chủ.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nguyễn Xuân Cường cũng kiến nghị điều kiện ngân sách hạn hẹp nên tập trung vào mũi nhọn, dư địa có tác dụng lan tỏa nhanh và hiệu quả tức thì chẳng hạn như các ngành nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp thích ứng biến đổi khí hậu, dịch vụ du lịch và công nghệ thông tin.

Lê Văn



Xem nguồn

Bộ Giáo dục nghiêm cấm ra đề thi vượt chương trình

Posted: 04 Jan 2017 04:58 AM PST


Trong công văn gửi các sở GD&ĐT ngày 30/12/2016, Bộ GD&ĐT cho biết qua phản ánh của báo chí, một số địa phương, cơ sở giáo dục chưa thực hiện nghiêm túc quy định về việc ra đề và tổ chức kiểm tra, đánh giá trong quá trình dạy học.

Cụ thể, việc ra đề kiểm tra còn thiếu tính chính xác, vượt quá yêu cầu của chương trình. Hình thức tổ chức kiểm tra, đánh giá không phù hợp mục đích và đối tượng học sinh làm ảnh hưởng không tốt đến động cơ và chất lượng dạy, học của giáo viên và học sinh.

Những điều này tạo ra áp lực không đáng có cho giáo viên và học sinh, gây băn khoăn, bức xúc trong xã hội.

Bộ Giáo dục nghiêm cấm ra đề thi vượt chương trình (Ảnh: giaoduc.net.vn)

Chính vì vậy, Bộ GD&ĐT đề nghị các sở GD&ĐT, trường THPT trực thuộc tăng cường công tác chỉ đạo, quản lý hoạt động dạy học, kiểm tra đánh giá thường xuyên và học kỳ theo đúng các quy định.

Việc ra đề, tổ chức kiểm tra, đánh giá phải được rà soát, đánh giá toàn bộ, đảm bảo tính chính xác, khoa học, phù hợp học sinh; nghiêm cấm ra đề và tổ chức kiểm tra, đánh giá sai quy định, vượt quá yêu cầu của chương trình.

Trước đó, ngày 29/11/2016, Bộ GD&ĐT có công văn về việc hướng dẫn kiểm tra và sơ kết học kỳ I năm học 2016-2017, trong đó yêu cầu các Sở GD&ĐT chỉ đạo các trường thực hiện nghiêm túc về dạy học và kiểm tra, đánh giá; tuân thủ việc xây dựng ma trận đề kiểm tra một tiết và kiểm tra cuối học kỳ; đảm bảo kết hợp một cách hợp lý giữa hình thức tự luận và trắc nghiệm khách quan.

Ngoài ra, Bộ cũng đã tập huấn cho cán bộ quản lý, giáo viên cốt cán và chỉ đạo các Sở GD&ĐT triển khai tập huấn mở rộng tại địa phương về việc xây dựng ma trận, ra đề kiểm tra, đánh giá phù hợp theo quy trình chuẩn hóa.



Xem nguồn

Xây dựng hợp tác giáo dục Việt Nam – Nhật Bản bền vững

Posted: 04 Jan 2017 04:15 AM PST


Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ (phải) và Đại sứ UMEDA Kunio trao đổi nhiều vấn đề nhằm tăng cường hợp tác GD-ĐT

Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ (phải) và Đại sứ UMEDA Kunio trao đổi nhiều vấn đề nhằm tăng cường hợp tác GD-ĐT

Tại buổi tiếp, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cho biết, sinh viên Việt Nam rất quan tâm đến du học Nhật Bản, nhiều người muốn tiếp tục ở lại học lên cao hoặc làm việc. Hiện Nhật Bản là điểm du học lớn thứ ba đối với du học sinh Việt Nam, chỉ sau Mỹ và Australia.

Tuy nhiên ở nhiều mặt hợp tác giáo dục còn hạn chế và cần sự hỗ trợ giúp đỡ của Nhật Bản. Ví dụ khả năng tiếng Nhật của học sinh Việt Nam chưa tốt; việc trao đổi học sinh phổ thông giữa 2 quốc gia còn ít; trường Đại học Việt – Nhật, biểu tượng hợp tác giáo dục và văn hoá giữa 2 nước, khởi đầu tốt nhưng cơ sở vật chất vẫn sơ sài và đang cần hỗ trợ đầu tư xây dựng sớm; các cơ sở giáo dục phổ thông Việt Nam đang thực hiện đổi mới căn bản toàn diện, vì thế cần hỗ trợ nhiều công việc như xây dựng giáo trình, viết SGK, cải tiến phương pháp giảng dạy…

Đại sứ UMEDA Kunio cũng ghi nhận sự hợp tác tích cực về GD-ĐT giữa 2 nước trong thời gian qua. Đại sứ cho biết hiện Nhật Bản có 606 trường có quan hệ hợp tác với phía Việt Nam, trong đó 30 trường đã đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam tạo điều kiện cho việc trao đổi giáo viên, hợp tác nghiên cứu…

Nhật Bản hiện cũng đang thực hiện chương trình giao lưu học sinh THPT trong lĩnh vực khoa học. Mỗi năm có 40 – 50 học sinh Nhật Bản sang Việt Nam giao lưu học tập với các bạn Việt Nam.

Thời gian tới, Nhật Bản sẽ chú trọng tới giao lưu học sinh Tiểu học và THCS. Từ năm 1992 đến nay, từ nguồn viện trợ quy mô nhỏ, Nhật Bản đã xây dựng 233 trường ở những địa bàn khó khăn tại Việt Nam. Nhật Bản sẽ tiếp tục hỗ trợ việc xây trường cho vùng khó này…

Một vấn đề lớn mà Đại sứ nêu ra trao đổi là quản lí lưu học sinh Việt Nam tại Nhật Bản. Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cho biết Việt Nam rất mong muốn phối hợp với Nhật Bản làm tốt công tác quản lí lưu học sinh. Bộ trưởng đề xuất xây dựng trao đổi cơ chế thông tin giữa 2 ngành GD, 2 quốc gia để quản lí chặt hoạt động của các trung tâm tư vấn du học.


Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ nhấn mạnh mong muốn xây dựng hợp tác giáo dục Việt Nam – Nhật Bản không chỉ tốt mà phải bền vững.

Năm 2017 là năm quan trọng trong quan hệ hợp tác ngoại giao giữa 2 nước Việt Nam – Nhật Bản với nhiều chuyến thăm song phương của lãnh đạo 2 nước dự kiến trong những tháng đầu năm 2017.



Xem nguồn

Xem xét đưa nội dung về giáo dục công dân toàn cầu vào chương trình học

Posted: 04 Jan 2017 03:34 AM PST


– Đây là kết luận của Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ trong buổi làm việc với các thành viên của Chương trình Giáo dục Công dân toàn cầu (CDTC) diễn ra mới đây.


Xem xét đưa nội dung về giáo dục công dân toàn cầu vào chương trình học

Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ trao đổi với GS Carlo Alberto Torres về chương trình Giáo dục công dân toàn cầu.

Gs Carlos Alberto Torres, Chủ tịch Chương trình Giáo dục CDTC cho biết chương trình này được Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Bankimoon sáng lập ra từ năm 2012 dựa trên 3 trụ cột cơ bản: giáo dục cho tất cả mọi người, nâng cao chất lượng giáo dục và Giáo dục CDTC.

GS Carlos khẳng định đây là một chương trình để đẩy nhanh quá trình hội nhập với thế giới, nhờ đó công dân Việt Nam sẽ được giáo dục để biết tôn trọng giá trị chung của nhân loại, của các dân tộc khác, năng lực hợp tác với bạn bè quốc tế và tham gia thị trường lao động.

Qua đó, mong muốn Bộ GD-ĐT sẽ xem xét đưa Chương trình giáo dục công dân toàn cầu vào nội dung giảng dạy trong trường học.

Nếu Việt Nam đồng ý, mạng lưới này sẽ hỗ trợ giáo viên giảng viên kiến thức, kỹ năng để giảng dạy về nội dung CDTC gồm cả bậc THPT và ĐH. Hiện Mạng lưới CDTC đã xây dựng bộ câu hỏi 125 câu hỏi. Người trả lời 80% số câu hỏi này sẽ được nhận chứng chỉ là CDTC.

Đại diện cho Ban soạn thảo chương trình, SGK mới, GS Nguyễn Minh Thuyết nhìn nhận, việc đưa các nội dung của chương trình vào nội dung giảng dạy trong các bậc học ở thời điểm này khá thuận lợi vì Việt Nam đang xây dựng chương trình, SGK mới. Song, để triển khai vào thực tế thì không dễ vì so với hiểu biết xã hội của số đông người dân Việt Nam, những nội hàm của chương trình này có một khoảng cách khá xa.

GS Phạm Hồng Quang, Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Thái Nguyên cho rằng, cần cân nhắc khi đưa nội dung của chương trình Giáo dục công dân toàn cầu vào chương trình học như các môn học độc lập. Hiện nay các chương trình học trong nhà trường ở các bậc học đều đã quá tải. Định hướng xây dựng các môn học theo hướng tích hợp, liên môn mà Bộ GD-ĐT đã xác định, ông Quang cho rằng nên chăng đưa các nội dung, nội hàm của Giáo dục CDTC vào lồng ghép theo huớng tích hợp với các môn học khác.

Bộ trưởng GD-ĐT Phùng Xuân Nhạ đề nghị lãnh đạo chương trình cung cấp đầy đủ nội dung, tư liệu, các bộ tiêu chí để tìm ra sự khác biệt, tương đồng, định hướng tiếp nhận một cách chủ động. Những gì phù hợp sẽ đưa dần vào môn học. Nếu khác biệt sẽ xem xét để sắp xếp một cách phù hợp.

Thanh Hùng



Xem nguồn

Thủ tướng ban hành Quy chế hoạt động của Trường ĐH Khoa học và Công nghệ Hà Nội

Posted: 04 Jan 2017 02:51 AM PST


– Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội.

Theo Quy chế, Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội là trường đại học công lập, trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (Viện Hàn lâm), chịu sự quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo của Bộ GD-ĐT, chịu sự quản lý hành chính theo lãnh thổ của UBND thành phố Hà Nội.

Trường có chức năng và nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam, đặc biệt trong những lĩnh vực khoa học, công nghệ mũi nhọn.

Bên cạnh đó, đào tạo các trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ; gắn kết chặt chẽ hoạt động đào tạo với hoạt động nghiên cứu khoa học. 

Sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh hoàn thành chương trình đào tạo được trường cấp bằng tương ứng với trình độ đào tạo; nghiên cứu khoa học và công nghệ trong mối liên hệ chặt chẽ với doanh nghiệp; phổ biến kết quả nghiên cứu và thực hiện chuyển giao công nghệ.

 Trường được xây dựng theo hướng đề cao nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự do học thuật trong đào tạo và nghiên cứu. Trong đó, trường được quyết định về cơ cấu tổ chức các đơn vị trực thuộc và ban hành các quy định nội bộ phù hợp với quy định của pháp luật. Trường được tuyển dụng, quản lý và sử dụng cán bộ, giảng viên, người lao động theo quy định của Nhà nước. Trường được quyết định số lượng người làm việc và được thành lập Hội đồng chức danh giáo sư cơ sở.

Trường được quyền huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu đào tạo của Trường, được tự quyết định sử dụng nguồn kinh phí theo quy chế chi tiêu nội bộ của Trường.

Cơ cấu tổ chức Trường có Hội đồng trường, Hội đồng Nội trị (Senat), Ban Giám hiệu, Hội đồng khoa học và đào tạo, các khoa, phòng, ban, các đoàn thể và tổ chức chính trị – xã hội.

Hội đồng trường là tổ chức chịu trách nhiệm quyết định về phương hướng hoạt động của Trường, huy động và giám sát việc sử dụng các nguồn lực dành cho Trường, gắn Trường với cộng đồng và xã hội.

Các thành viên của Hội đồng trường do Chủ tịch Viện Hàn lâm bổ nhiệm theo đề nghị của hai Bên (Bên Việt Nam do Chủ tịch Viện Hàn lâm đề xuất; Bên Pháp do Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam đề xuất). Hội đồng trường gồm 20 thành viên (trong đó có 1 Chủ tịch và 2 Phó Chủ tịch) không thuộc biên chế của Trường, không hưởng lương, nhưng được hưởng thù lao và phụ cấp khi tham gia các hoạt động của Hội đồng trường. Mức thù lao, phụ cấp sẽ được xác định trong quy chế chi tiêu nội bộ của Trường. Thành viên Hội đồng trường của mỗi Bên bao gồm: 2 đại diện do Chính phủ hai nước cử;  3 đại diện các trường đại học và tổ chức nghiên cứu; 2 nhà khoa học ở ngoài Trường; 3 đại diện từ các tổ chức kinh tế – xã hội.

Hiệu trưởng không là thành viên của Hội đồng trường, được mời tham gia các cuộc họp của Hội đồng trường nhưng không có quyền biểu quyết.

Nhiệm kỳ của Hội đồng trường là 5 năm. Hết nhiệm kỳ, mỗi Bên bổ nhiệm mới 50% và bổ nhiệm lại 50% số thành viên. Thành viên không tham gia Hội đồng trường quá hai nhiệm kỳ liên tục.

Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội còn được gọi là Trường ĐH Việt Pháp, được thành lập theo Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Pháp ngày 12/11/2009 và Quyết định số 2067/QĐ-TTg ngày 09/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội. Trường được đầu tư 190 triệu USD để xây dựng theo mô hình đại học xuất sắc.

Tuệ Minh



Xem nguồn

Thủ tướng: "Đừng để các nhà khoa học vất vả lo mua hóa đơn"

Posted: 04 Jan 2017 02:08 AM PST


 Khẳng định năng lực kiến tạo quản trị của nhà nước là yếu tố thúc đẩy sự phát triển của khoa học công nghệ (KHCN), Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cho rằng phải đổi mới kiến tạo lại nền hành chính mới có thể phát huy vai trò của KHCN.

Thủ tướng: 'Đừng để các nhà khoa học vất vả lo mua hóa đơn'

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại Hội nghị tổng kết ngành KHCN sáng 4/1. Ảnh: Lê Văn.

Phát biểu tại hội nghị tổng kết ngành KHCN diễn ra sáng nay, 4/1, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khẳng định, có 5 yếu tố cơ bản để tạo nên sự phát triển của KHCN, gồm: thể chế, cơ chế, môi trường; con người; nguồn lực; cơ sở hạ tầng cho KHCN và năng lực hội nhập cho đất nước.

Tại sao có nước KHCN phát triển tốt như vậy, nhiều tập đoàn KHCN lớn như vậy, như Singapore nhưng nước ta KHCN lại phát triển chưa tốt. Đó chính là do thể chế chính sách của chúng ta” – Thủ tướng nói.

Một yếu tố nằm ngoài 5 yếu tố trên song rất quan trọng đối với sự phát triển của KHCN, theo Thủ tướng chính là năng lực kiến tạo quản trị của nhà nước.

Làm Nhà nước, Bộ, tỉnh thậm chí là Chính phủ mà không kiến tạo được sự phát triển của KHCN thì trách nhiệm là của chúng ta” – Thủ tướng khẳng định.

Do vậy, theo Thủ tướng, cần tạo ra những thể chế thông thoáng để phát huy nhân tài, sử dụng người tài, kể cả những người chưa vào Đảng, kiều bào, nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài về cống hiến cho quê hướng đất nước. “Thực tế đất nước ta có nhiều cá nhân trẻ tuổi và tài năng” – Thủ tướng cho hay.

Điều này đòi hỏi phải kiến tạo lại hành chính để phát huy vai trò của KHCN trước hết là con người, là thể chế. Tinh thần chung là phải khai phóng mọi nguồn lực sáng tạo để đưa đất nước tiến lên vững vàng“.

Thủ tướng cho rằng, việc chỉ ra những những cơ chế đang kìm hãm sự phát triển của KHCN và đề xuất với TW Đảng, Bộ Chính trị và Chính phủ để cùng tháo gỡ là trách nhiệm của Bộ KHCN và những người làm KHCN nói chung.

Các bộ, ngành, viện quản lý nhà nước phải coi việc hoàn thiện thể chế là nhiệm vụ quan trọng của cơ quan quản lý nhà nước về KHCN. Cần phải tập trung vào các nút thắt trong thể chế quản lý” – Thủ tướng chỉ đạo.

Thủ tướng cũng khẳng định, cần phải tách hoạt động khoa học ra khỏi hoạt động hành chính. Tránh tình trạng hành chính hóa nghiên cứu khoa học.

Nếu nhà khoa học suốt ngày lo nghĩ chuyện thủ tục hành chính thì am hiểu về chuyên môn có khi rơi rụng am hiểu hành chính tăng lên. phải Làm quen tư duy quản lý KH chỉ dựa vào kết quả chứ không phải dựa vào quá trình” – Thủ tướng nói. “Đừng để nhà KH phải vất vả lo mua hóa đơn”.

Từ đó, Thủ tướng khẳng định, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ lắng nghe tháo gỡ nếu cơ chế, thể chế đó tạo nên sự phát triển của KHCN Việt Nam.

Nhà khoa học phải lắng nghe hơi thở cuộc sống

Nhắc lại nhiều lần yêu cầu nghiên cứu KH, các nhà KH phải gắn liền với đời sống, với thực tiễn, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng, đầu tư cho KHCN cần phải bám sát hơn nhu cầu thực tiễn, thiết thực hơn.

Theo Thủ tướng, thực tiễn phát triển KHCN trên thế giới cho thấy, đầu tư nghiên cứu (R) cần ít nhất 10 năm mới đem lại hiệu quả thực tiễn, tỉ lệ thành công rất thấp. Đầu tư cho phát triển (D) phải mất hàng trăm năm, tỉ lệ thất bại không nhỏ.

Trong khi đó, đầu tư nghiên cứu ứng dụng KHCN để tạo ra sản phẩm thiết thực phục vụ cho xã hội, đáp ứng nhu cầu của thị trường chỉ mất 2-3 năm, chi phí thấp, tỉ lệ thành công cao, mang lại hiệu quả kinh tế ngay, từ đó có nguồn thu đầu tư ngược lại cho KHCN.

Chúng tôi đồng ý nghiên cứu KHCN có tính mạo hiểm và phải chú ý nghiên cứu cơ bản nhưng phải làm sao sử dụng hiệu quả nguồn lực trong điều kiện đất nước còn hạn chế” – Thủ tướng chỉ rõ.

Thủ tướng cũng yêu cầu cán bộ KHCN phải biết vận dụng kiến thức KHCN vào kinh tế, đời sống. “KHCN giữa trời thì biết đời sống thực tiễn ra sao?” – Thủ tướng đặt câu hỏi. “Đề nghị các đợn vị KHCN, Bộ KHCN phải bám sát thực tiễn, bám sát doanh nghiệp, lắng nghe hơi thở cuộc sống xem cuộc sống cần gì, ta hỗ trợ được cái gì“.

Thủ tướng cũng dẫn lại lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khẳng định, khoa học phải từ sản xuất mà ra, phải quay lại phục vụ sản xuất quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động, không ngừng cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm CNXH thắng lợi. Các tổ chức KH và nhà khoa học phải lăn lộn trong thực tiễn, quan hệ chặt chẽ với các xí nghiệp, hợp tác xã, người sản xuất, phải biết công nhân yêu cầu gì, làm ăn sinh sống như thế nào, họ cần chuyển giao, giúp đỡ phổ biến những tiến bộ KHCN như thế nào.

Đó là những lời dạy của Bác Hồ và cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị, vẫn là định hướng chung cho KHCN nước nhà” – Thủ tướng khẳng định.

Lê Văn



Xem nguồn

Không thể chấp nhận sự im lặng đối với bạo lực học đường

Posted: 04 Jan 2017 01:25 AM PST


Năm qua có rất nhiều vụ bạo lực học đường làm cho dư luận chấn động và phẫn nộ. Ngay từ bậc mầm non, tiểu học, một số em đã phải chịu những "cái tát" đầu đời. Đến bậc THCS, THPT, bạo lực học đường càng phổ biến và nghiêm trọng hơn.

Bạo lực học đường không chỉ xảy ra giữa học sinh với học sinh, giữa giáo viên với học sinh mà còn xảy ra giữa phụ huynh với giáo viên, không chỉ "thượng cẳng chân, hạ cẳng tay" mà còn là làm nhục, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác.

Đặc biệt vừa qua, trong những ngày cuối năm, câu chuyện bạo lực học đường được "bồi thêm" thêm một vụ rất nghiêm trọng: cô giáo D.T (Trường Tiểu học Ninh Sở, huyện Thường Tín, Hà Nội) đã bắt 43 học sinh trong lớp tát vào mặt một em học sinh lớp 4, do em này "chửi bậy" lớp trưởng.


Vết đỏ trên má học sinh T.L sau khi bị các bạn tát (ảnh: facebook)

Vết đỏ trên má học sinh T.L sau khi bị các bạn tát (ảnh: facebook)

Đến mức này, phải chăng "quả bóng" bạo lực học đường đã bùng nổ? Hành vi cô giáo bắt học sinh cả lớp tát vào mặt một học sinh rất nghiêm trọng, là một vụ bạo lực học đường tập thể, có tổ chức. Oái oăm thay, người "đạo diễn" chính là cô giáo chủ nhiệm, người trực tiếp dạy dỗ, giáo dục các em.

Bạo lực học đường là chuyện "biết rồi, khổ lắm, nói mãi", nói hoài đến phát chán, nhưng không nói thì không được. Năm nào, quý nào, tháng nào, địa phương nào cũng cũng có xảy ra bạo lực học đường.

Những vụ được phản ánh trên báo chí, những video-clip trên mạng xã hội chỉ là "phần nổi của tảng băng trôi". Còn rất nhiều vụ do nhà trường "ém", "xử lý nội bộ", bưng bít thông tin để giữ "uy tín" cho trường (?). Và rất nhiều vụ nhà trường, gia đình, địa phương không biết nếu như không có những video-clip được tung lên mạng xã hội.

Theo báo cáo nghiên cứu được Bộ GD-ĐT kết hợp với Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc công bố ngày 20/12/2016 thì bạo lực học đường là một trong những vấn đề nóng nhất của trường học phổ thông hiện nay.

Có 80% học sinh cho biết từ trước đến nay đã bị bạo lực giới trong trường học ít nhất một lần; 71% học sinh bị bạo lực học đường trong vòng 6 tháng trước đó.

Trong đó, 73% học sinh bị bạo lực tinh thần (mắng chửi, đe dọa, bắt phạt, đặt điều, sỉ nhục…), 41% bạo lực thể chất và 19% bị bạo lực tình dục.

Nguyên nhân bạo lực học đường là do gia đình, nhà trường, xã hội chưa chú trọng giáo dục cách ứng xử, kỹ năng sống, ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh.

Nhiều người lớn không làm gương cho trẻ, dùng bạo lực trong giải quyết mâu thuẫn, trong đó có cả thầy cô giáo, những người được xem là "khuôn vàng thước ngọc" cho học sinh.

Một số phụ huynh lại tán đồng, "khuyến khích" con em mình đánh trả khi bị bạn bắt nạt. Điều đó làm cho bạo lực học đường có nguy cơ bùng phát, lan rộng thêm.

Sự thờ ơ, vô cảm của một bộ phận học sinh, chúng tung hô, reo hò, "cỗ vũ", kích động khi thấy đám bạn đánh nhau, rồi dùng điện thoại quay để đăng facebook, youtube như một thú vui, một cách "câu Like" trên mạng xã hội.

Quy định kỷ luật nhà trường đã lạc hậu

Nề nếp, kỷ cương, kỷ luật nhà trường chưa nghiêm; Thông tư 08/TT (ngày 21/3/1988) của Bộ GD&ĐT về xử lý kỷ luật học sinh đến nay ban hành đã gần 30 năm nên rất bất cập, không còn phù hợp, thiếu tính răn đe và ngăn ngừa học sinh vi phạm kỷ luật.

Đáng nói hơn là thời gian qua ngành giáo dục chưa có động thái nào quyết liệt trong toàn ngành về chấn chỉnh vấn đề bạo lực học đường. Nhiều vụ bạo lực học đường bị nhà trường giấu nhẹm để tránh tai tiếng, không thông tin, báo cáo lên cấp trên. Vì thế, lãnh đạo địa phương không biết, Phòng, Sở GD&ĐT cũng không biết, tức dưới thì "dữ dội, ồn ào" nhưng trên thì "gió yên, sóng lặng".


Phải chăng

Phải chăng "quả bóng" bạo lực học đường đã bùng nổ?

Điều đó giải thích vì sao bạo lực học đường ngày càng "lây lan" và trầm trọng như nạn "đại dịch bệnh". Hôm nay mới xảy ra vụ này, hôm sau lại xảy ra các vụ khác tương tự, thậm chí nghiêm trọng hơn. Báo chí phản ánh rất nhiều nhưng không hiểu sao nhiều trường, nhiều giáo viên "không chịu" rút kinh nghiệm ?

Thiết nghĩ, đến mức này chúng ta không thể im lặng được nữa. Im lặng khác gì dung túng, chấp nhận cho bạo lực học đường leo thang. Đừng vì "uy tín", thành tích ảo mà im lặng, bao che, giấu nhẹm những vụ bạo lực học đường ở nhà trường.

Các em học sinh không nên quay và đăng tải những video-clip đánh nhau như một hình thức "câu Like", "câu View" mà hãy dùng nó như một bằng chứng để tố cáo những kẻ dùng bạo lực ức hiếp người khác.

Không phải ai cũng đủ khả năng làm "hiệp sỹ" để xông vào can gián đám ẩu đả, đánh nhau. Trong trường hợp này hãy dùng chiếc điện thoại của bạn để ghi lại hình ảnh và điện báo cho nhà trường, công an khu vực.

Không chần chừ gì nữa, từng địa phương phải có những "đường dây nóng" công khai rộng rãi để học sinh, phụ huynh và nhân dân phản ảnh nạn bạo lực học đường khi cần. Nhà trường và chính quyền cần tăng cường giáo dục pháp luật cho học sinh; xử lý nghiêm khắc những hành vi vi phạm, không bao che, dung túng bất cứ trường hợp nào. Khi học sinh là người chưa thành niên, phụ huynh phải chịu trách nhiệm trước địa phương và pháp luật nếu để con em mình tham gia đánh nhau, xúc phạm thân thể, nhân phẩm người khác, gây rối nề nếp, kỷ cương nhà trường và trật tự xã hội.

Lê Xuân Chiến

Các ý kiến đóng góp tin, bài của độc giả trên trang Giáo dục báo Dân trí xin gửi về hộp thư: giaoduc@dantri.com.vn. Xin trân trọng cám ơn!



Xem nguồn

Comments