Nghề Giáo - Giáo viên - Giáo dục

Nghề Giáo - Giáo viên - Giáo dục


Nữ phó giáo sư 8X đa tài

Posted: 12 Feb 2013 07:25 AM PST


Bỏ qua cao học để làm nghiên cứu sinh và bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại Anh ở tuổi 26, 5 năm sau (năm 2012) Nguyễn Khánh Diệu Hồng được phong chức danh phó giáo sư.

Yêu văn thơ, thích vẽ tranh nhưng lại chọn thi khối A

Những cảm nhận đầu tiên với vị nữ phó giáo sư (PGS) trẻ nhất trong đợt phong chức danh này cuối năm 2012 dường như trái ngược so với tưởng tượng về một nhà nữ nghiên cứu khoa học. Nguyễn Khánh Diệu Hồng đem lại cho người tiếp xúc cảm giác hòa đồng nhưng không thiếu chút “kiêu ngầm” của một cô gái Hà thành với những thành công đáng nể trong công việc và cuộc sống.

Những kỷ niệm gắn bó với khu vực Trường Đại học Bách khoa Hà Nội từ thuở nhỏ được Nguyễn Khánh Diệu Hồng đưa ra như một mối duyên cũng là nguyên nhân khiến một nữ sinh Hà thành yêu văn thơ, thích vẽ tranh lại đăng ký thi vào trường đại học này. Không dừng ở đó, sau 4 năm nghiên cứu sinh và thực tập tại Anh, cô đã không chần chừ quay về với ngôi trường mình gắn bó để khẳng định sự nghiệp của mình ở đây.

Nữ phó giáo sư 32 tuổi Nguyễn Khánh Diệu Hồng.

Trong cuộc trò chuyện với vị PGS trẻ này, sự tò mò về chân dung một nữ khoa học trẻ của phóng viênđược thỏa mãn trước bảng thành tích liên tục từ thời học sinh, sinh viên đến nay của Diệu Hồng. Song ấn tượng nhất từ nữ khoa học là phong cách 8x với nét nữ tính, sự thẳng thắn, thông minh cùng khá nhiều tài lẻ được cô tiết lộ. Dù bận rộn với công việc của một giảng viên đứng lớp, tham gia hướng dẫn luận văn thạc sỹ, nghiên cứu sinh, Diệu Hồng vẫn dành không ít thời gian cho gia đình nhỏ của mình khi con gái của cô mới gần 1 tuổi.

“Có lẽ vì là dân Hóa nên có lợi thế trong việc chế biến nấu ăn. Chỉ cần ông xã nói thích món gì mình có thể tự tìm tòi để ra đúng hương vị của món ăn đó”, Diệu Hồng bật mí về cuộc sống gia đình tưởng như không dễ chu toàn với một nữ tiến sĩ say mê nghiên cứu khoa học.

Học giỏi từ nhỏ với nhiều thành tích từ bậc tiểu học đến phổ thông, bao quát các lĩnh vực từ văn hóa, nghệ thuật, sự toàn tài của Diệu Hồng được chứng minh bằng những bức tranh do cô sáng tác.

“Ở nước ngoài một mình phải giải quyết mọi công việc, những lúc như vậy, vẽ tranh là một liều thuốc tinh thần rất hiệu quả với bản thân tôi. Cũng vì vậy mà bức tranh vẽ cầu Tháp bắc qua sông Themes ở London đã được tôi ứng tác trong liền 2 ngày không nghỉ", Diệu Hồng nhớ lại.

Ngôi nhà của những ai yêu khoa học

Không giống như nhiều bạn bè thường có lựa chọn cơ hội ở lại nước ngoài sau thời gian học tập để tìm kiếm cơ hội phát triển, Diệu Hồng sớm quyết định về nhà ngay khi hoàn thành nghiên cứu sinh tại đại học University College London, trường được xếp hạng tốp đầu thế giới và 1 năm thực tập sinh sau tiến sĩ tại Viện nghiên cứu hoàng gia Anh dù cô là người Việt Nam đầu tiên có được cơ hội làm việc tại đây. “Về nước thấy ấm cúng hơn nhiều, quanh mình có mẹ, có gia đình nhỏ và cả một môi trường cộng đồng nghiên cứu khoa học kết nối rộng khắp”, nữ PGS 32 tuổi cho biết.

PGS Diệu Hồng (ngoài cùng bên phải) trong một chuyến đi thực tế.

Tiếp thêm niềm say mê nghiên cứu khoa học cho các sinh viên của mình, Diệu Hồng chia sẻ, giới trẻ rất năng động. Sinh viên ở trường luôn có sự tìm tòi, sáng tạo đáng ngạc nhiên. Vì vậy, với vai trò của một giảng viên, một nhà nghiên cứu khoa học, Diệu Hồng không ngừng nỗ lực hết mình. Khó khăn đối với một nhà nghiên cứu cũng khó có thể hình dung hết nhưng không có sự kiên trì, không say mê, không hy sinh sẽ không có thành quả. "Một sản phẩm nghiên cứu được chuyển giao là rất khó. Mất rất nhiều thời gian nghiên cứu, có những lúc thất bại, việc thử nghiệm cũng không dễ dàng. Chỉ đến khi mọi người thấy được công dụng cũng như so sánh giá thành thì sản phẩm mới chính thức được công nhận.", Diệu Hồng chia sẻ.

Ngay từ khi còn là sinh viên, niềm đam mê với nghiên cứu khoa học đã đến với Diệu Hồng với định hướng lựa chọn rõ ràng về lĩnh vực nhiên liệu sạch, thân thiện môi trường. Thành công đầu tiên của Diệu Hồng chính là một nhánh đề tài của Hồng cùng nhóm nghiên cứu, trong khuôn khổ một đề tài lớn của thầy hướng dẫn, được ứng dụng thực tế vào năm 2003. Năm đó, đề tài này đã giành giải Nhất "Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam" 2003 của Quĩ VIFOTEC và Huy chương Vàng tại Hội chợ công nghệ Việt Nam 2003.

Tiếp tục thành công này là hàng loạt những nghiên cứu của nhóm nghiên cứu về nhiên liệu sinh học thân thiện môi trường, các chất tẩy rửa trong đời sống và trong công nghệ lọc Hóa dầu trong đó có Hồng được đưa vào ứng dụng… Niềm vui ngày càng lớn khi những thành quả của cả nhóm nghiên cứu "sống" thực sự sau khi vượt qua nhiều thử nghiệm trong môi trường sản xuất kinh doanh vốn với những vị khách hàng thực dụng và khó tính. Đây là một nguồn tiếp sức lớn cho niềm đam mê nghiên cứu của Diệu Hồng và của cả những học trò của cô giáo trẻ tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.

Cũng từ ngọn lửa say mê khoa học đó, đối với Diệu Hồng, Viện Kỹ thuật Hóa học là ngôi nhà thứ hai của cô. Ngôi nhà này của Diệu Hồng còn liên tục mở rộng với nhiều thành viên mới khi những sinh viên, nghiên cứu sinh đăng ký làm việc với cô đều được giao kèo phải coi đây là nhà. "Coi là nhà có nghĩa là phải biết tôn trọng các quy định của phòng thí nghiệm, biết tiết kiệm, phải gọn gàng, cẩn trọng an toàn cho ngôi nhà của mình, và quan trọng hơn là biết chia sẻ ý tưởng, giúp đỡ các thành viên trong nhóm thay vì dành riêng cho bản thân, để cạnh tranh…", Diệu Hồng tâm sự.

Theo Dân Trí

 

Nguồn: http://news.zing.vn/teen-viet/nu-pho-giao-su-8x-da-tai/a302452.html

Bộ trưởng Bộ GD-amp;ĐT Phạm Vũ Luận: Việc gì thấy đúng tôi nhất định sẽ làm

Posted: 12 Feb 2013 03:24 AM PST

Nhân dịp đầu Xuân mới Quý Tỵ 2013, GS.TS. Phạm Vũ Luận, Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo đã có cuộc trao đổi với báo chí, đánh giá những chuyển động và sự nỗ lực của toàn ngành năm 2012 đồng thời chỉ rõ phương thức quản lý điều hành và những nhiệm vụ của năm mới 2013.

Bộ trưởng Phạm Vũ Luận
Bộ trưởng Phạm Vũ Luận

3 kết quả nổi bật về giáo dục đào tạo năm 2012

Phóng viên : Thưa Bộ trưởng, nhìn lại năm 2012, đâu là điều mà Ông tâm đắc nhất và là kết quả nổi bật nhất của ngành giáo dục đào tạo?

Bộ trưởng Phạm Vũ Luận: Điều mà tôi thấy tâm đắc nhất là sự quan tâm và đầu tư của Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân đối với giáo dục. Năm 2012 là năm rất khó khăn trong bối cảnh suy thoái chung của kinh tế thế giới và trong nước. Nhiều ngành, nhiều địa phương phải tạm dừng triển khai những công trình rất quan trọng, nhưng phần đầu tư cho giáo dục vẫn được Đảng, nhà nước quan tâm ưu tiên, đảm bảo. Các gia đình cũng vậy, thu nhập có thể giảm đi nhưng các bậc phụ huynh vẫn tiếp tục chăm lo duy trì việc học tập cho con em mình, giúp quy mô học sinh cả nước được ổn định.

Lúc thuận lợi được quan tâm là rất quý rồi, và khi khó khăn như hiện nay mà vẫn được quan tâm thì những người làm giáo dục như chúng tôi thấy rất ấm lòng.

Điều thứ 2 tôi muốn chia sẻ là những kết quả nổi bật về giáo dục mũi nhọn. Trong năm 2012 có 28 học sinh Việt Nam được tuyển chọn dự thi 31 lượt ở các cuộc thi quốc tế và khu vực, thì tất cả các em đều đoạt giải. Đặc biệt, trong số này có một học sinh lớp 11 của tỉnh Sơn La đoạt Huy chương vàng quốc tế. Đây là kết quả nỗ lực của đội ngũ các thầy cô giáo và các em học sinh. Bên cạnh đó, trong thành công này có sự đóng góp của các cơ quan chức năng của Bộ. Cụ thể là chúng tôi đã thay đổi nội dung, hình thức thi, cách ra đề thi chọn học sinh giỏi quốc gia theo các phương thức tổ chức thi học sinh giỏi quốc tế.

Đồng thời, chúng tôi tách việc quản lý nhà nước của Bộ (Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục) ra khỏi công việc chuyên môn trong việc tổ chức thi và tuyển chọn học sinh giỏi đi dự thi quốc tế. Trước đây, các công việc này do Cục Khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục thực hiện. Bây giờ Cục tập trung vào việc ban hành các văn bản và chỉ đạo tổ chức triển khai. Còn việc lựa chọn học sinh, ra đề, chấm thi, bồi dưỡng đội tuyển… do các hội khoa học (như Hội Toán học, Hội Vật lý…) và các nhà giáo giỏi, có uy tín thực hiện. Cần nói thêm là việc thay đổi này do chính các nhà khoa học đề xuất với Bộ. Các Giáo sư nói với tôi rằng: Không phải học sinh của chúng ta kém đi mà do chúng ta đang đi khác thế giới, do chúng ta chọn và dạy HSG không theo tiêu chuẩn quốc tế. Tôi kiểm tra thực tế thấy đúng như vậy và quyết định phải điều chỉnh. Để hội nhập, chúng ta phải phải tuân theo các quy định của quốc tế.

Cách làm mới này còn tạo ra cơ chế để huy động các lực lượng xã hội tham gia bồi dưỡng học sinh năng khiếu, tạo điều kiện để Bộ tập trung thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước. Tôi hy vọng cơ chế này sẽ cho chúng ta kết quả bền vững hơn, không chỉ là chuyện "bỗng dưng một ngày đẹp trời" được gặt Huy chương mà đây chính là một cách làm để hội nhập và có thể bắt kịp với thế giới.

Điều thứ ba tôi muốn nói đến là việc nhóm học sinh trường Hà Nội – Amstecdam tại Hội thi khoa học và kỹ thuật quốc tế (Intel ISEF) 2012 đã vượt lên trên học sinh từ gần 200 quốc gia để đoạt giải nhất. Cụ thể các em giành giải nhất lĩnh vực Vật liệu và Kỹ sinh học với đề tài "Xử lý nước mặn thành nước ngọt bằng kỹ thuật chân không và năng lượng mặt trời phục vụ cho sinh hoạt".

Điều này cho thấy hướng đưa các trường ĐH gắn với các trường phổ thông, đưa các giáo sư đại học hướng dẫn học sinh phổ thông tìm tòi, sáng tạo và nghiên cứu khoa học. Trước đây, hai bậc học này tương đối biệt lập, thậm chí trường sư phạm với trường phổ thông cũng gắn bó hạn chế. Nay chúng ta đã tạo được mối liên hệ, đưa các nhà khoa học cùng các phòng thí nghiệm của các trường đại học về gần với các trường phổ thông, không phải chỉ để rèn cho các HSG đi thi mà còn tạo điều kiện để các nhà khoa học đầu ngành của các trường đại học gặp gỡ các em học sinh và truyền lửa cho thế hệ sau. Từ năm 2013, việc tổ chức cho học sinh phổ thông làm NCKH sẽ được nhân lên, mở rộng hơn trong hệ thống giáo dục cả nước.

Chúng tôi cũng sẽ chuyển hướng, không chỉ bồi dưỡng học sinh giỏi về lý thuyết mà sẽ giúp các em rèn luyện, sáng tạo, có kỹ năng vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các vấn đề thực tiễn.

Đổi mới phương thức quản lý giáo dục

Phóng viên: Xin chúc mừng Bộ trưởng về những kết quả không thể phủ nhận trên. Tuy nhiên, thưa Bộ trưởng, bấy lâu nay, người dân vẫn trông đợi ở ngành giáo dục một sự thay đổi mang tính căn bản và toàn diện?

Bộ trưởng Phạm Vũ Luận: Thay đổi căn bản và toàn diện giáo dục cũng chính là nhiệm vụ quan trọng nhất mà chúng tôi đang hướng tới và từng bước triển khai. Trong năm 2012, tư duy và cách thức chỉ đạo quản lý ở cơ quan Bộ GD-ĐT đã có thay đổi ban đầu, và tôi cho là có ý nghĩa căn bản. Rõ nhất là trong quản lý đại học. Chúng tôi tôn trọng, tin tưởng trao cho các cơ sở giáo dục đại học những quyền lớn, trách nhiệm lớn. Nếu các bạn theo dõi kỹ sẽ thấy, trước đây, các chuyên viên của Vụ Giáo dục Đại học ngồi duyệt từng luận án TS, dò xem danh mục tài liệu tham khảo đã xếp đúng thứ tự ABC chưa. Bây giờ đã thay đổi, các vụ, cục tập trung vào công việc quản lý, thẩm định, kiểm tra một cách thật cụ thể, chặt chẽ theo hướng nâng cao chất lượng.

Ví dụ trước đây Bộ yêu cầu các trường báo cáo danh sách giáo viên giảng dạy tại trường. Do vậy, đã có một số trường lập danh sách "hoành tráng" với hàng loạt giảng viên tên tuổi, nhưng toàn là giảng viên của các trường khác được mời đến thỉnh giảng. Cá nhân tôi cũng từng có trong danh sách giảng viên của một số trường. Thậm chí, có trường đã kê vào danh sách giảng viên tên các thầy giáo đã mất ! Nay chúng tôi yêu cầu các trường phải có đội ngũ giáo viên cơ hữu của mình. Một ví dụ khác, chúng tôi giao cho các trường quyền chủ động xác định chỉ tiêu tuyển sinh trên cơ sở các định mức do Bộ ban hành. Còn Bộ tập trung vào việc thanh kiểm tra, và sau đó không chỉ rút kinh nghiệm mà là kiên quyết xử lý.

Phóng viên: Thưa Bộ trưởng, để tạo ra sự thay đổi trong phương thức quản lý giáo dục: tập trung vào việc thẩm định, kiểm tra và nhất là xử lý các vi phạm trên thực tế, Ông có gặp khó khăn hay sự trợ giúp nào không ?

Bộ trưởng Phạm Vũ Luận:
Phải nói thật là trong việc xử lý các vụ sai phạm mà Bộ làm được trong thời gian qua có công lớn của báo chí. Tôi đã từng chất vấn: Tại sao Vụ, Cục nào cũng phân công cán bộ theo dõi từng khối trường nhưng về các vi phạm của cơ sở thì tôi không nhận được qua báo cáo từ Vụ, Cục, mà chỉ nhận được thông tin qua báo chí? Mình là cán bộ, có nhiệm vụ chính là theo dõi xem các cơ sở có thực hiện đúng không mà không làm được. Trong khi báo chí người ta không có kinh phí, không biên chế mà phát hiện ra được các sai phạm. Cách quản lý như vậy là không bình thường, cần thay đổi.

Đó là những thay đổi bước đầu, nhưng xin chia sẻ thật với các nhà báo là khó khăn lắm mới đạt được đấy (cười). . . .

Có người lo lắng cho tôi và khuyên không nên quyết liệt quá, nhưng tính tôi là vậy. Việc gì mình đã thấy đúng và có đủ điều kiện triển khai thì kiên quyết làm. Mình là cán bộ có chức, có quyền, có công cụ trong tay mà thấy đúng không làm thì không thể chấp nhận được. Đã thấy đúng mà không làm thì bứt dứt không yên!

Kiên quyết xử lý người đứng đầu 

Phóng viên: Còn đối với những căn bệnh trầm kha của giáo dục như lạm thu, dạy thêm học thêm, tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích kéo dài – Bộ trưởng có thể cho biết kết quả giải quyết những bức xúc nêu trên?

Bộ trưởng Phạm Vũ Luận
: Năm 2012, chúng tôi đã chủ động tìm giải pháp để cải thiện một bước tình hình nêu trên.

Năm 2012, Bộ đã có văn bản hướng dẫn về chống "dạy thêm, học thêm tràn lan", chống lạm thu. Quan điểm của chúng tôi là phải tiến hành mọi hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.

Chúng tôi đang chăm chú theo dõi các địa phương, dư luận xã hội để tiếp tục chỉ đạo và nếu thấy cần thiết sẽ điều chỉnh bổ sung. Tôi vui mừng vì các quy định này bước đầu đã vào được cuộc sống. Ví dụ HĐND Hà Nội đã vào cuộc, chỉ đạo trả lại các khoản tiền đã thu sai quy định. Đà Nẵng đã miễn nhiệm ngay chức vụ của một hiệu trưởng để xảy ra lạm thu,… Cũng có hiện tượng một vài Sở làm mạnh tay quá , có phần cứng nhắc như báo chí đã phản ánh là "bắt dạy thêm như bắt trộm", chúng tôi đã gọi điện và hướng dẫn, giải thích cho rõ là mình chống dạy thêm tràn lan chứ không phải chống dạy thêm học thêm nói chung.

Các vấn đề nhức nhối này đã có những bước chuyển, nhưng kết quả sẽ phụ thuộc vào công tác tổ chức, triển khai thực hiện của cả hệ thống chính trị, sự chuyển biến trong nhận thức, hành động của các thầy cô giáo và các bậc phụ huynh.

Về tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích, đây là một thực trạng tồn tại dai dẳng. Quan điểm của chúng tôi là nỗ lực phòng ngừa và khi đã phát hiện tiêu cực thì cần xử lý dứt điểm, nghiêm túc, kể cả hiệu trưởng. Chúng tôi sẽ làm theo đúng tinh thần nghị quyết TƯ 4 là xử lý trách nhiệm người đứng đầu. Nếu nhà trường vi phạm về tuyển sinh, chúng tôi không dừng lại ở việc phạt tiền (vi phạm hành chính) mà kiến nghị xử lý hiệu trưởng.

Lần đầu tiên, năm 2012 chúng tôi cho chấm thanh tra 17.000 bài thi tốt nghiệp THPT ở 16 tỉnh những nơi có kết quả tăng đột biến. Sau khi chấm lại, chúng tôi gửi lại kết quả này cho Bí thư , Chủ tịch của 16 tỉnh đó với số liệu và nhận xét cụ thể mặt tốt, mặt chưa tốt và những vấn đề cần rút kinh nghiệm của từng tỉnh. Chúng tôi chỉ rõ những hạn chế, ví dụ như: coi thi chưa tốt vì có bài thi sai giống nhau, chấm không nghiêm túc: sai cũng cho điểm, không làm được cũng cho điểm,… công tác chỉ đạo , quản lý chưa sâu sát: không phát hiện ra cái sai. Đồng thời, chúng tôi cũng có văn bản gửi cho lãnh đạo 63 tỉnh thành phố thông báo kết quả chung và chủ trương của Bộ sẽ tiếp tục việc thanh kiểm tra, công khai trong 2013 và những năm tiếp theo.

Chúng tôi làm tất cả việc này với tinh thần trung thực với chính mình, trung thực với Đảng và nhân dân, và với tinh thần trách nhiệm cao với ngành và với tương lai đất nước.

Phóng viên: Trong năm 2012 nhiều tiêu cực tập thể đã được phát hiện và xử lý, Bộ trưởng nhìn nhận vấn đề này như thế nào và có định hướng nguyên tắc chung nào khi giải quyết những vấn đề tiêu cực này?

Bộ trưởng Phạm Vũ Luận: Nguyên tắc của chúng tôi là kiên quyết xử lý dứt điểm các vi phạm và tiêu cực, không để kéo dài. Quán triệt các nghị quyết trung ương, nhất là nghị quyết TW4 của Đảng, chúng tôi xử lý nghiêm túc theo đúng quy chế, kết hợp xử lý tập thể vi phạm với xử lý trách nhiệm người đứng đầu.

Việc này sẽ được tiếp tục rút kinh nghiệm và sẽ làm định kỳ, thường xuyên, đột xuất nếu có tình hình đặc biệt trong năm 2013 để chấn chỉnh kỷ cương kỷ luật, khẳng định một cách chắc chắn trên thực tế quan điểm tôn trọng pháp luật và giữ kỷ cương, uy tín trong ngành giáo dục.

Năm 2012 là năm đầu tiên một hiệu trưởng (THPT DL Đồi Ngô, Bắc Giang) để xảy ra gian lận trong thi tốt nghiệp bị kỷ luật ngay. Không né tránh và kiên quyết xử lý các sai phạm do báo chí, các lực lượng xã hội phát hiện.

Bên cạnh đó năm 2012 Bộ còn chủ động tiến hành nhiều cuộc thanh tra để tìm ra sai phạm và xử lý mạnh. Đây là năm đầu Bộ quyết liệt kiểm tra tình hình vi phạm về tuyển sinh và đào tạo liên kết với nước ngoài. Những cơ sở đào tạo liên kết với nước ngoài vi phạm tại Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh đã được UBND 2 thành phố có những quyết định xử lý mạnh là đóng cửa. Đây cũng là năm Bộ tổ chức thanh tra trên diện rộng và kiến nghị xử lý 8 hiệu trưởng đại học không thực hiện đúng quy định của Bộ về tuyển sinh.

Sẽ hoàn chỉnh Đề án Đổi mới căn bản toàn diện GD – ĐT

Phóng viên: Cuối cùng, xin Bộ trưởng cho biết những nhiệm vụ trọng tâm của toàn ngành trong năm 2013 ?

Bộ trưởng Phạm Vũ Luận: Trong năm 2013 nhiệm vụ tổng quát là trên cơ sở những kết quả thành quả đã đạt được những năm trước, toàn ngành phấn đấu đạt được những bước chuyển mình mạnh hơn theo hướng tăng cường kỷ cương kỷ luật; phát triển giáo dục đào tạo theo hướng nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu xã hội. Chúng tôi sẽ phối hợp chặt chẽ với BTGTW và các cơ quan khác hoàn chỉnh Đề án đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo để trình Hội nghị TƯ 8.

Ở bậc phổ thông sẽ tập trung giải quyết những tồn tại, bức xúc xã hội mà trong 2012 mới khắc phục được bước đầu, chưa dứt điểm như lạm thu, học thêm dạy thêm tràn lan, bạo lực học đường, nâng cao đạo đức và ý thức trách nhiệm của học sinh; tập trung chuẩn bị các nội dung của đề án đổi mới chương trình sách giáo khoa sau năm 2015.

Đối với giáo dục đại học, chúng tôi tiếp tục đẩy mạnh công tác soạn thảo để ban hành hoặc trình cấp trên ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật giáo dục đại học, nhanh chóng đưa Luật vào cuộc sống; hoàn thiện cơ chế tự chủ của các trường, đồng thời tăng cường và hoàn thiện cơ chế thanh kiểm tra của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của UBND cấp tỉnh, của các bộ, ngành liên quan để đảm bảo tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các cơ sở đào tạo, ưu tiên việc nâng cao chất lượng…

Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng ! 

TTXVN

Nguồn: http://gdtd.vn/channel/3005/201302/Bo-truong-Bo-GD-DT-Pham-Vu-Luan-Viec-gi-thay-dung-toi-nhat-dinh-se-lam-1966928/

Mùng 3 Tết: Miền Bắc rét đậm, miền Nam nắng ấm

Posted: 12 Feb 2013 03:24 AM PST

Theo Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Trung ương, khu vực vùng núi cao rét hại, thấp nhất 10 độ C, Hà Nội có mưa vài nơi, trời rét nhiệt độ về đêm thấp nhất 13 độ C. Như vậy, so với ngày hôm qua, nhiệt độ hôm nay có xu hướng nhích lên 1-2 độ C, mưa vài nơi. 

Do ảnh hưởng của không khí lạnh nên ở vùng biển ngoài khơi các tỉnh từ Bình Thuận đến Cà Mau, khu vực phía Bắc Biển Đông (bao gồm cả vùng biển quần đảo Hoàng Sa) có gió đông bắc mạnh cấp 6, giật cấp 7. Biển động.

Theo dự báo, đợt rét đậm, rét hại này còn kéo dài khoảng 3 ngày nữa, sau đó trời sẽ ấm dần.


Ảnh  minh họa.

Trong khi đó, người dân thành phố Hồ Chí Minh đón Tết Nguyên đán với điều kiện thời tiết khá thuận lợi song triều cường lại dâng cao và đạt đỉnh vượt báo động 2 gây ngập úng cho nhiều tuyến phố. Trên sông Sài Gòn tại Phú An đỉnh triều cao nhất xuất hiện hai lần vào buổi sáng sớm và chiều tối với mức triều đạt lần lượt là 1.41 mét và 1.35 mét. Trên kênh Đồng Điền tại Nhà Bè vào sáng sớm và chiều tối đỉnh triều cao nhất đạt xấp xỉ báo động 2 vào khoảng 3 giờ sáng và 17 giờ 30 với mực nước đạt được lần lượt là 1.36 mét và 1.34 mét.

Dự báo, hôm nay đỉnh triều vẫn tiếp tục lên cao theo triều và có khả năng đạt báo động 3. Đỉnh triều giữ ở mức cao nên trên nhiều tuyến phố thuộc các quận Thủ Đức, 12, Gò Vấp, các huyện Hóc Môn, Củ Chi… đã bị ngập sâu, điều này đã gây khá nhiều trở ngại cho việc du xuân cũng như sinh hoạt hàng ngày của người dân.

Chi tiết các địa phương trên cả nước ngày 12/2 như sau:

Phía tây Bắc Bộ nhiều mây, có mưa vài nơi, sáng sớm có nơi có sương mù. Gió nhẹ. Sáng và đêm trời rét. Nhiệt độ thấp nhất từ 15 – 18 độ C. Nhiệt độ cao nhất từ 21 – 24 độ C, riêng Điện Biên – Lai Châu nhiệt độ từ 27 – 29 độ C.

Phía đông Bắc Bộ, nhiều mây, có mưa và mưa nhỏ rải rác. Gió đông bắc cấp 2 – 3. Trời rét. Nhiệt độ thấp nhất từ 14 – 17 độ C, vùng núi có nơi nhiệt độ từ 11 – 13 độ C. Nhiệt độ cao nhất từ 18 – 21 độ C.

Khu vực Hà Nội, nhiều mây, có mưa và mưa nhỏ rải rác. Gió đông bắc cấp 2 – 3. Trời rét. Nhiệt độ thấp nhất từ 15 – 18 độ C. Nhiệt độ cao nhất từ 17 – 20 độ C.

Từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên Huế, nhiều mây, có mưa vài nơi, riêng phía bắc chiều tối và đêm có mưa rải rác. Gió bắc đến tây bắc cấp 2 – 3. Phía bắc sáng và đêm trời rét. Nhiệt độ thấp nhất từ 18 – 21 độ C. Nhiệt độ cao nhất từ 23 – 26 độ C.

Đà Nẵng đến Bình Thuận, mây thay đổi, có mưa rào vài nơi. Gió đông bắc cấp 2 – 3. Nhiệt độ thấp nhất từ 21 – 24 độ C. Nhiệt độ cao nhất từ 28 – 31 độ C.

Tây Nguyên, mây thay đổi, ngày nắng, đêm không mưa. Gió đông bắc cấp 2 – 3. Nhiệt độ thấp nhất từ 15 – 18 độ C. Nhiệt độ cao nhất từ 28 – 31 độ C.

Nam Bộ, mây thay đổi, ngày nắng, đêm không mưa. Gió đông bắc cấp 2 – 3. Nhiệt độ thấp nhất từ 21 – 24 độ C. Nhiệt độ cao nhất từ 32 – 35 độ C.

Nguồn: http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Mung-3-Tet-Mien-Bac-ret-dam-mien-Nam-nang-am/276233.gd

Khẩn trương soạn thảo văn bản QPPL triển khai thi hành Luật GD Đại học

Posted: 12 Feb 2013 02:24 AM PST

(GDTĐ)-Bộ Giáo dục và Đào tạo đang khẩn trương rà soát lại kế hoạch và phân công việc soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật để triển khai thi hành Luật giáo dục đại học theo thẩm quyền hoặc xây dựng trình các cấp có thẩm quyền xem xét ban hành.

Lễ trao bằng tốt nghiệp sinh viên Trường ĐH Nguyễn Trãi. Ảnh: gdtd.vn
Lễ trao bằng tốt nghiệp sinh viên Trường ĐH Nguyễn Trãi. Ảnh: gdtd.vn

Sau khi Luật giáo dục đại học được Quốc hội thông qua, việc soạn thảo các văn bản quy định chi tiết Luật là nhiệm vụ không kém phần quan trọng để góp phần nhanh chóng đưa các quy định của Luật đi vào cuộc sống. Theo dự kiến của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì để quy định chi tiết Luật giáo dục đại học sẽ có 36 văn bản, bao gồm: ban hành mới 12 văn bản; sửa đổi, bổ sung 24 văn bản. Cụ thể như sau: Chính phủ ban hành mới 05 Nghị định, sửa đổi, bổ sung 02 Nghị định; Thủ tướng Chính phủ ban hành mới 01 Quyết định; sửa đổi, bổ sung 08 Quyết định; Liên Bộ ban hành 04 Thông tư liên tịch; Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành mới 06 Thông tư; sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế 19 Thông tư.

Ngày 2/7/2012, Chủ tịch Nước đã ký Lệnh số 06/2012/L-CTN công bố Luật giáo dục đại học đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18/6/2012. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2013. Đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động giáo dục, đổi mới quản lý giáo dục đại học, tạo điều kiện cho sự nghiệp giáo dục phát triển mạnh mẽ hơn.

Luật giáo dục đại học bao gồm 12 chương, 73 điều. Chương I. Những quy định chung, gồm 13 điều (từ Điều 1 đến Điều 13) quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; áp dụng Luật giáo dục đại học; giải thích từ ngữ; mục tiêu của giáo dục đại học; trình độ và hình thức đào tạo của giáo dục đại học; cơ sở giáo dục đại học; đại học quốc gia; phân tầng cơ sở giáo dục đại học; ngôn ngữ dùng trong cơ sở giáo dục đại học; quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học; chính sách của Nhà nước về phát triển giáo dục đại học; tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam, đoàn thể và tổ chức xã hội trong cơ sở giáo dục đại học.

Chương II. Tổ chức cơ sở giáo dục đại học, gồm 14 điều (từ Điều 14 đến Điều 27) quy định về cơ cấu tổ chức của cơ sở giáo dục đại học (cơ cấu tổ chức của trường cao đẳng, trường đại học, học viện; cơ cấu tổ chức của đại học; hội đồng trường, hội đồng đại học, hội đồng khoa học và đào tạo, hội đồng quản trị; hiệu trưởng; phân hiệu của cơ sở giáo dục đại học); thành lập, sáp nhập, chia, tách, giải thể cơ sở giáo dục đại học; cho phép, đình chỉ hoạt động đào tạo (điều kiện thành lập hoặc cho phép thành lập cơ sở giáo dục đại học; điều kiện để được cho phép hoạt động đào tạo; sáp nhập, chia, tách cơ sở giáo dục đại học; đình chỉ hoạt động đào tạo của cơ sở giáo dục đại học; giải thể cơ sở giáo dục đại học; thẩm quyền, thủ tục thành lập hoặc cho phép thành lập; sáp nhập, chia tách, giải thể; cho phép hoạt động đào tạo, đình chỉ hoạt động đào tạo cơ sở giáo dục đại học) .

Chương III. Nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở giáo dục đại học, gồm 5 điều (từ Điều 28 đến Điều 32) quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của trường cao đẳng, trường đại học, học viện; nhiệm vụ và quyền hạn của đại học; nhiệm vụ và quyền hạn của viện nghiên cứu khoa học được phép đào tạo trình độ tiến sĩ; nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài; quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục đại học.

Chương IV. Hoạt động đào tạo, gồm 6 điều (từ Điều 33 đến Điều 38) quy định về mở ngành, chuyên ngành đào tạo trình độ cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ; chỉ tiêu tuyển sinh và tổ chức tuyển sinh; thời gian đào tạo; chương trình đào tạo, giáo trình giáo dục đại học; tổ chức và quản lý đào tạo; văn bằng giáo dục đại học.

Chương V. Hoạt động khoa học và công nghệ, gồm 4 điều (từ Điều 39 đến Điều 42) quy định về mục tiêu hoạt động khoa học và công nghệ; nội dung hoạt động khoa học và công nghệ; nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở giáo dục đại học trong hoạt động khoa học và công nghệ; trách nhiệm của nhà nước về phát triển khoa học và công nghệ.

Chương VI. Hoạt động hợp tác quốc tế, gồm 6 điều (từ Điều 43 đến Điều 48) quy định về mục tiêu hoạt động hợp tác quốc tế; các hình thức hợp tác quốc tế của cơ sở giáo dục đại học; liên kết đào tạo với nước ngoài; văn phòng đại diện; nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở giáo dục đại học trong hợp tác quốc tế; trách nhiệm của nhà nước về hợp tác quốc tế.

Chương VII. Bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục đại học, gồm 5 điều (từ Điều 49 đến Điều 53) quy định về mục tiêu, nguyên tắc và đối tượng kiểm định chất lượng giáo dục đại học; trách nhiệm của cơ sở giáo dục đại học trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục đại học; nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở giáo dục đại học về kiểm định chất lượng giáo dục đại học; tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục đại học; sử dụng kết quả kiểm định chất lượng giáo dục đại học.

Chương VIII. Giảng viên, gồm 5 điều (từ Điều 54 đến Điều 58) quy định về giảng viên; nhiệm vụ và quyền của giảng viên; chính sách đối với giảng viên; giảng viên thỉnh giảng và báo cáo viên; các hành vi giảng viên không được làm.

Chương IX. Người học, gồm 5 điều (từ Điều 59 đến Điều 63) quy định về người học; nhiệm vụ và quyền của người học; các hành vi người học không được làm; chính sách đối với người học; nghĩa vụ làm việc có thời hạn theo sự điều động của Nhà nước.

Chương X. Tài chính, tài sản của cơ sở giáo dục đại học, gồm 4 điều (từ Điều 64 đến Điều 67) quy định về nguồn tài chính của cơ sở giáo dục đại học; học phí, lệ phí tuyển sinh; quản lý và sử dụng tài chính của cơ sở giáo dục đại học; quản lý và sử dụng tài sản của cơ sở giáo dục đại học. 

Chương XI. Quản lý nhà nước về giáo dục đại học, gồm 4 điều (từ Điều 68 đến Điều 71) quy định về nội dung quản lý nhà nước về giáo dục đại học; cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục đại học; thanh tra, kiểm tra; xử lý vi phạm.

Chương XII. Điều khoản thi hành, gồm 2 điều (Điều 72 và Điều 73) quy định về hiệu lực thi hành và hướng dẫn thi hành.

Các điểm mới cơ bản của Luật GD Đại học

Luật giáo dục đại học nhằm mục tiêu thể chế hóa các chủ trương chính sách của Đảng về giáo dục, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động giáo dục đại học để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chuẩn bị nhân lực cho nền kinh tế tri thức trong giai đoạn tiếp theo.

Để đạt được mục tiêu trên, Luật giáo dục đại học quy định bốn vấn đề mới cơ bản gồm: phân tầng đại học, xã hội hóa giáo dục đại học, quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học và vấn đề kiểm soát chất lượng đào tạo. 

Phân tầng đại học:
Khi thực hiện Luật giáo dục đại học, hệ thống các trường đại học của nước ta sẽ được phân tầng thành các cơ sở giáo dục đại học định hướng nghiên cứu, các cơ sở giáo dục đại học định hướng ứng dụng và cơ sở giáo dục đại học đính hướng nghề nghiệp. Mỗi một loại hình trường có mục tiêu đào tạo khác nhau và mức độ đầu tư cũng khác nhau. Sự phân tầng đại học nhằm tránh việc đầu tư dàn trải, đồng thời tạo điều kiện đào tạo đội ngũ nhân lực hài hòa theo nhu cầu của xã hội. Khoản 1 Điều 9  Luật đã quy định:" Cơ sở giáo dục đại học được phân tầng nhằm phục vụ công tác quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển, nâng cao năng lực đào tạo và nghiên cứu khoa học của cơ sở giáo dục đại học; thực hiện quản lý nhà nước".

 Để từng bước thực hiện phân tầng đại học, Luật đã quy định: "Tăng ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục đại học; đầu tư có trọng điểm để hình thành một số cơ sở giáo dục đại học chất lượng cao, theo định hướng nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học cơ bản, các ngành công nghệ cao và ngành kinh tế – xã hội then chốt đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới" (Khoản 2 Điều 12).

Xã hội hóa giáo dục đại học: Xã hội hóa giáo dục là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Chủ trương này đã được quy định trong Luật giáo dục và nay tiếp tục được cụ thể hóa trong Luật giáo dục đại học. Theo đó "Thực hiện xã hội hóa giáo dục đại học; ưu tiên về đất đai, thuế, tín dụng, đào tạo cán bộ để khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học tư thục và cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động không vì lợi nhuận; ưu tiên cho phép thành lập cơ sở giáo dục đại học tư thục có vốn đầu tư lớn, bảo đảm các điều kiện thành lập theo quy định của pháp luật; cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục đại học vì mục đích vụ lợi." (khoản 3 Điều 12).

Để tránh tình trạng một cơ sở giáo dục đại học nào đó muốn lợi dụng danh nghĩa phi lợi nhuận để mưu cầu lợi nhuận, tại khoản 3 Điều 66 về quản lý tài chính của cơ sở giáo dục đại học đã quy định:

"Phần tài chính chênh lệch giữa thu và chi từ hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học của cơ sở giáo dục đại học tư thục được sử dụng như sau:

a) Dành ít nhất 25% để đầu tư phát triển cơ sở giáo dục đại học, cho các hoạt động giáo dục, xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, đào tạo, bồi dưỡng giảng viên, viên chức, cán bộ quản lý giáo dục, phục vụ cho hoạt động học tập và sinh hoạt của người học hoặc cho các mục đích từ thiện, thực hiện trách nhiệm xã hội. Phần này được miễn thuế;

b) Phần còn lại, nếu phân phối cho các nhà đầu tư và người lao động của cơ sở giáo dục đại học thì phải nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế."

Mặt khác để đảm bảo sự phát triển bền vững của nhà trường,  Luật qui định giá trị tài sản tích lũy được trong quá trình hoạt động của cơ sở giáo dục đại học tư thục và giá trị của các tài sản được tài trợ, ủng hộ, hiến tặng cho cơ sở giáo dục đại học tư thục là tài sản chung không chia, được quản lý theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển; Tài sản và đất đai Nhà nước giao cho cơ sở giáo dục đại học tư thục quản lý và tài sản cơ sở giáo dục đại học tư thục được tài trợ, ủng hộ, hiến tặng phải được sử dụng đúng mục đích, không chuyển đổi mục đích sử dụng và không được chuyển thành sở hữu tư nhân dưới bất cứ hình thức nào;

Nhà nước và xã hội dựa vào việc sử dụng phần tài chính chênh lệch giữa thu chi và tài chính trong hoạt động của nhà trường để có chính sách phù hợp. Với quy định đó, một mặt, Nhà nước không cấm các cơ sở giáo dục đại học hoạt động vì lợi nhuận hợp lý, và mặt khác, có chính sách phù hợp, khuyến khích đối với cơ sở giáo dục đại học hoạt động không vì lợi nhuận.

Quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học:
Tự chủ là một thuộc tính của cơ sở giáo dục đại học. Vấn đề này được thể hiện nhất quán và xuyên suốt trong các quy định của Luật giáo dục đại học. Quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học được quy định tương ứng với năng lực và điều kiện đảm bảo quyền tự chủ.

Quyền tự chủ đi kèm với tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục đại học. Trách nhiệm lớn nhất của cơ sở giáo dục đối với xã hội là bảo đảm chất lượng đào tạo. Luật qui định cơ sở giáo dục đại học được tự chủ in phôi văn bằng, cấp văn bằng cho người học. Như vậy, đã gắn chất lượng đào tạo với tên tuổi của nhà trường.

Hội đồng trường là thiết chế không thể thiếu để giao quyền tự chủ cho các trường. Điều 16 Luật giáo dục đại học bổ sung quy định về hội đồng trường đối với cơ sở giáo dục đại học công lập so với quy định tại Điều 52 của Luật giáo dục cho phù hợp hơn với thực tiễn giáo dục đại học Việt Nam.

Kiểm soát chất lượng đào tạo: Luật Giáo dục Đại học đã đưa vào những điều khoản giám sát chặt chẽ chất lượng đào tạo trong suốt quá trình sinh viên học tập tại trường. Thay vì qui định chương trình khung như trước đây,  Luật giáo dục đại học quy định về chuẩn tối thiểu kiến thức, kỹ năng tại khoản 3 Điều 36 như sau:" Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu cầu về năng lực mà người học đạt được sau khi tốt nghiệp đối với mỗi trình độ đào tạo của giáo dục đại học; quy trình xây dựng, thẩm định và ban hành chương trình đào tạo trình độ cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ…".

Để khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học huy động ngày càng nhiều các nguồn lực đầu tư cho các điều kiện bảo đảm chất lượng, cạnh tranh nâng cao chất lượng đào tạo, đảm bảo hài hòa cơ cấu nhân lực, nâng cao tính cạnh tranh của sinh viên Việt Nam trong khu vực và trên thế giới, khoản 6 Điều 65 Luật giáo dục đại học quy định: "Cơ sở giáo dục đại học thực hiện chương trình đào tạo chất lượng cao được thu học phí tương xứng với chất lượng đào tạo".

Song song với việc thiết lập các tiêu chí đảm bảo chất lượng đào tạo, Luật cũng đưa ra khung pháp lý của việc tổ chức, hoạt động công tác kiểm định chất lượng giáo dục. Kiểm định chất lượng là bắt buộc đối với các cơ sở giáo dục đại học để thực hiện quyền tự chủ. Trên cơ sở kết quả kiểm định chất lượng, các cơ sở giáo dục đại học sẽ được xếp hạng theo những tiêu chí được các cấp có thẩm quyền qui định.

Ngoài 4 điểm mới cơ bản trên, Luật giáo dục đại học còn có các điều, khoản quy định về ngạch của giảng viên trong cơ sở giáo dục đại học (gồm trợ giảng, giảng viên, giảng viên chính, phó giáo sư, giáo sư); quy định trình độ chuẩn của chức danh giảng viên giảng dạy trình độ đại học; qui định cấp có thẩm quyền ban hành chuẩn quốc gia của cơ sở giáo dục đại học; quy định về công tác quản lý nhà nước về giáo dục đại học và công tác thanh tra, kiểm tra…

NN

Nguồn: http://gdtd.vn/channel/3005/201302/Khan-truong-soan-thao-van-ban-QPPL-trien-khai-thi-hanh-Luat-GD-Dai-hoc-1966933/

Học bổng chương trình sau đại học tại Bungari năm 2013

Posted: 12 Feb 2013 02:24 AM PST

Học bổng chương trình sau đại học – thạc sĩ  – Tiến sĩ tại Bungari năm 2013

Căn cử Thỏa thuận hợp tác về giáo dục giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam và Bộ Giáo dục, Thanh niên và Khoa học Bun-ga-ri giai đoạn 2012 – 2016, Bộ Giáo dục và Đào tạo thông báo tuyển sinh đi học sau đại học tại Bun-ga-ri theo diện Hiệp định năm 2013.

Tổng số có 1 học bổng thạc sĩ, 1 học bổng tiến sĩ và từ 1 đến 3 học bổng thực tập sinh sau đại học hoặc nghiên cứu khoa học về các ngành khoa học kỹ thuật, xã hội và nhân văn. Thời gian học chương trình thạc sĩ: 2 năm, chương trình tiến sĩ: từ 3 đến 4 năm và thời gian thực tập hoặc nghiên cứu khoa học: từ 3 tháng đến 9 tháng. Dự kiến ứng viên trúng tuyển sẽ lên đường đi học trong tháng 9/2013.

Ứng viên trúng tuyển học bổng thạc sĩ và tiến sĩ sẽ được học dự bị tiếng Bun-ga-ri 01 năm học tại Bun-ga-ri và sau khi hoàn thành khóa học dự bị sẽ được chuyển vào học chuyên ngành. Ứng viên trúng tuyển học bổng thực tập sinh phải có đủ trình độ ngoại ngữ để đi học tại Bun-ga-ri (đã học đại học hoặc sau đại học tại Bun-ga-ri hoặc có chứng chỉ tiếng Anh quốc tế tối thiểu là TOEFL 500 điểm hoặc IELTS 5.5).

Ứng viên được tiếp nhận theo chương trình học bổng này sẽ được Chính phủ Bun-ga-ri miễn phí đào tạo và cấp học bổng; Chính phủ Việt Nam cấp vé máy bay một lượt đi và về, phí đi đường, lệ phí làm hộ chiếu, visa và cấp bù sinh hoạt phí hàng tháng theo chế độ hiện hành.

 

Học bổng chương trình sau đại học - thạc sĩ tại Bungari năm 2013

Học bổng chương trình sau đại học – thạc sĩ tại Bungari năm 2013

Ứng viên không được tự ý thay đổi ngành học và các chi tiết đã đăng ký dự tuyển trong bất kỳ trường hợp nào. Nếu do điều kiện khách quan không thể đáp ứng được về ngành học ứng viên đăng ký dự tuyển, Bộ Giáo dục, Thanh niên và Khoa học Bun-ga-ri và Đại sứ quán Việt Nam tại Bun-ga-ri có thông báo bằng văn bản thì Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ phối hợp xử lý đề nghị thay đổi ngành học cụ thể cho ứng viên.

Điều kiện dự tuyển chung: Có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt; Đủ sức khoẻ để học tập tại nước ngoài. (Khi nhập học phía Bun-ga-ri sẽ khám lại sức khỏe. Nếu người nào bị phát hiện có bệnh, không đủ sức khỏe hoặc giả mạo hồ sơ sức khỏe để đi học sẽ phải về nước và tự chịu mọi chi phí liên quan, kể cả vé máy bay và bồi hoàn kinh phí cho Nhà nước); Ngành học đăng ký dự tuyển phải theo đúng khối ngành đã học đại học và sau đại học; Cam kết hoàn thành chương trình đào tạo và trở về phục vụ tại cơ quan cử đi học hoặc theo sự điều động của Nhà nước. Cam kết phải được cơ quan cử đi học xác nhận, có người thân bảo lãnh. Những người không hoàn thành chương trình đào tạo, tự bỏ học, bị buộc thôi học hoặc sau khi tốt nghiệp không trở về nước phục vụ phải bồi hoàn toàn bộ kinh phí cho ngân sách Nhà nước; Chưa đăng ký dự tuyển các chương trình học bổng khác để đi học tại nước ngoài trong năm 2013; Không trong thời gian bị kỷ luật, bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Đối tượng và điều kiện dự tuyển học bổng trình độ thạc sĩ:

Sinh viên chịu trách nhiệm chính thực hiện công trình đạt giải nhất Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học hoặc Giải thưởng Tài năng khoa học trẻ Việt Nam từ năm 2010 đến nay, đã tốt nghiệp đại học (hệ chính quy tập trung) thỏa mãn các điều kiện chung quy định và có điểm trung bình học tập toàn khóa đại học đạt từ 7,5 trở lên (theo thang điểm 10 hoặc tương đương).

Đối tượng và điều kiện dự tuyển học bổng trình độ tiến sĩ, thực tập sinh:

Công chức, viên chức, người lao động hợp đồng đang công tác tại các trường đại học, cao đẳng, viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, trung tâm công nghệ cao hoặc các cơ quan hành chính, sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước thỏa mãn các điều kiện chung quy định; Được cơ quan công tác đồng ý và có công văn cử dự tuyển; Không quá 35 tuổi đối với ứng viên dự tuyển học bổng tiến sĩ và không quá 45 tuổi đối với ứng viên dự tuyển học bổng thực tập sinh (tính đến ngày 01/4/2013); Tốt nghiệp đại học loại khá trở lên, kết quả học thạc sĩ và điểm bảo vệ tốt nghiệp đạt từ 8,0 trở lên theo thang điểm 10 hoặc tương đương; Đã tốt nghiệp đại học/sau đại học tại Bun-ga-gi hoặc có chứng chỉ tiếng Anh quốc tế: TOEFL 500 điểm hoặc IELTS 5.5 trở lên (đối với ứng viên thực tập sinh hoặc ứng viên đăng ký đi học chương trình tiến sĩ bằng tiếng Anh);

Ưu tiên ứng viên đã có văn bản sơ bộ của cơ sở đào tạo tại Bun-ga-ri tiếp nhận học chương trình tiến sĩ/thực tập sinh và ứng viên có thành tích nghiên cứu khoa học (thể hiện qua các bài báo đăng trên tạp chí khoa học hoặc báo cáo tại hội nghị khoa học cấp trường trở lên và được đăng trong kỷ yếu hội nghị hoặc tham gia đề tài nghiên cứu cấp Bộ trở lên và đề tài đó đã được nghiệm thu hoặc sử dụng).

Hồ sơ ứng tuyển các chương trình học bổng

Ứng viên nộp 1 bộ hồ sơ tiếng Việt để sơ tuyển gồm các giấy tờ trình bày trên giấy khổ A4, theo chiều dọc trang giấy và xếp thứ tự như sau (các bản sao phải hợp lệ và có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền): Công văn của cơ quan cử dự tuyển (nếu đang làm việc cho cơ quan); Phiếu đăng ký dự tuyển; Bản sao các hợp đồng làm việc, quyết định tuyển dụng, thuyên chuyển công tác, sổ bảo hiểm xã hội hoặc bảng lương gần nhất thể hiện có đóng bảo hiểm xã hội (đối với cán bộ hợp đồng); Bản cam kết nghĩa vụ đối với lưu học sinh đi học nước ngoài; Sơ yếu lý lịch có dán ảnh và xác nhận của cơ quan công tác (đối với cán bộ), xác nhận của Ủy ban nhân dân phường, xã hoặc của trường đang theo học (đối với người mới tốt nghiệp đại học, chưa có cơ quan công tác);

Bản sao giấy khai sinh (đối với người mới tốt nghiệp đại học, chưa có cơ quan công tác); Bản sao bằng, bảng điểm đại học (đối với người dự tuyển học bổng thạc sĩ); Bản sao bằng, bảng điểm đại học, thạc sĩ, tiến sĩ (đối với người dự tuyển học bổng tiến sĩ, thực tập sinh); Bản sao các bằng khen, giấy khen, văn bản hoặc giấy tờ chứng nhận các giải thưởng quốc tế, quốc gia hoặc tỉnh, thành phố và các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố, đạt giải thưởng,… (nếu có); Bản sao hợp lệ chứng chỉ ngoại ngữ tiếng Anh (đối với ứng viên thực tập sinh và tiến sĩ đăng ký học bằng tiếng Anh); Bản sao hợp lệ giấy chứng nhận con liệt sĩ; bản sao hợp lệ thẻ thương binh của bố/mẹ đẻ (nếu có); Giấy khám sức khỏe của bệnh viện đa khoa cấp tỉnh, thành phố trong đó có xác nhận đủ điều kiện đi học nước ngoài; Bản sao hóa đơn, chứng từ về việc nộp lệ phí dự tuyển; Tóm tắt kế hoạch/đề cương thực tập/nghiên cứu trong khoảng 2 trang khổ giấy A4 (đối với người dự tuyển học bổng thực tập sinh/tiến sĩ); Văn bản tiếp nhận sơ bộ của cơ sở đào tạo tại Bun-ga-ri, nếu có (đối với người dự tuyển học bổng thực tập sinh và tiến sĩ).

Sau khi hoàn thành hồ sơ dự tuyển, ứng viên phải quét (scan) lưu lại toàn bộ hồ sơ sang các files định dạng PDF (mỗi loại tài liệu quét thành 1 file riêng) để  đăng ký trực tuyến theo địa chỉ http://tuyensinh.vied.vn/ và đồng thời chuyển toàn bộ bản chính hồ sơ dự tuyển theo hình thức chuyển phát bảo đảm hoặc nộp trực tiếp trong giờ hành chính tại trụ sở Cục Đào tạo với nước ngoài – Bộ Giáo dục và Đào tạo, 21 Lê Thánh Tông, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Hồ sơ cần đựng trong túi hồ sơ kích thước 25cm x 34cm, mặt ngoài ghi đầy đủ thông tin chi tiết theo mẫu quy định đối với hồ sơ dự tuyển học bổng diện Hiệp định đi Bun-ga-ri năm 2013 (Phụ lục 3).

(Xem thêm thông tin, các mẫu văn bản liên quan tại các websites: www.vied.vn hoặc www.moet.gov.vn).

Hồ sơ hợp lệ là hồ sơ có đầy đủ giấy tờ theo quy định được nộp trong thời hạn quy định của Thông báo tuyển sinh và đã nộp lệ phí tuyển sinh theo quy định. Hồ sơ dự tuyển không được trả lại trong bất kỳ trường hợp nào.

Thời hạn nhận hồ sơ: trước ngày 10/3/2013 (tính theo dấu bưu điện đi hoặc sổ theo dõi nhận hồ sơ của Cục Đào tạo với nước ngoài)Lệ phí dự tuyển: 200.000đ/người cần  được chuyển đến Cục Đào tạo với nước ngoài (Cục ĐTVNN) trước ngày 10/3/2013.

Nguồn: http://kenhtuyensinh.vn/hoc-bong-chuong-trinh-sau-dai-hoc-tai-bungari-nam-2013

Bộ GD-amp;ĐT tuyển sinh đi học tại Hung-ga-ri năm 2013

Posted: 12 Feb 2013 01:24 AM PST

(GDTĐ)-Căn cứ Kế hoạch hợp tác giáo dục giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam và Bộ Nguồn nhân lực quốc gia Hung-ga-ri giai đoạn 2011 – 2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo thông báo tuyển sinh đi học theo diện Hiệp định tại Hung-ga-ri năm 2013.

Theo đó, Chính phủ Hung-ga-ri cấp cho Việt Nam 5 học bổng đào tạo trình độ đại học, 3 học bổng đào tạo trình độ tiến sĩ và từ 1 đến 4 học bổng dành cho thực tập sinh để nâng cao trình độ học vấn và nghiên cứu khoa học.

Ứng viên được tiếp nhận theo chương trình học bổng này sẽ được Chính phủ Hung-ga-ri miễn phí đào tạo, cấp học bổng và bảo hiểm y tế; Chính phủ Việt Nam cấp vé máy bay một lượt đi và về, phí đi đường, lệ phí làm hộ chiếu, visa và cấp bù sinh hoạt phí hàng tháng theo chế độ hiện hành.

Điều kiện dự tuyển chung: Có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt; Đủ sức khoẻ để học tập tại nước ngoài. (Khi nhập học phía Hung-ga-ri sẽ khám lại sức khỏe. Nếu người nào bị phát hiện có bệnh, không đủ sức khỏe hoặc giả mạo hồ sơ sức khỏe để đi học sẽ phải về nước và tự chịu mọi chi phí liên quan, kể cả vé máy bay và bồi hoàn kinh phí cho Nhà nước); Ngành học đăng ký dự tuyển phải theo đúng khối ngành đã trúng tuyển đại học ở Việt Nam hoặc ngành đã đạt giải Olympic quốc tế (đối với ứng viên học bổng đại học), phù hợp với chuyên ngành đã học đại học/sau đại học (đối với ứng viên học bổng sau đại học); Cam kết hoàn thành chương trình đào tạo và trở về phục vụ tại cơ quan cử đi học hoặc theo sự điều động của Nhà nước. Cam kết phải được cơ sở đào tạo hoặc cơ quan cử đi học xác nhận, bảo lãnh. Những người không hoàn thành chương trình đào tạo, tự bỏ học, bị buộc thôi học hoặc sau khi tốt nghiệp không trở về nước phục vụ phải bồi hoàn toàn bộ kinh phí cho ngân sách Nhà nước; Chưa đăng ký dự tuyển các chương trình học bổng khác để đi học tại nước ngoài trong năm 2013; Không trong thời gian bị kỷ luật, bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Đối tượng và điều kiện dự tuyển học bổng trình độ đại học: Sinh viên năm thứ nhất các trường đại học Việt Nam (hệ chính quy tập trung) thỏa mãn các điều kiện chung và các điều kiện cụ thể như sau: Tốt nghiệp THPT năm 2012 đạt loại khá trở lên, hạnh kiểm tốt từ lớp 10 đến lớp 12, điểm trung bình 03 năm trung học phổ thông đạt từ 7,5 trở lên, đã trúng tuyển đại học theo diện tuyển thẳng hoặc tổng điểm thi tuyển sinh đại học năm 2012 đạt từ 21 điểm trở lên (không nhân hệ số), kết quả học tập học kỳ I năm thứ nhất đại học đạt 7,5 trở lên; Ưu tiên ứng viên có nhiều thành tích trong học tập và rèn luyện, đạt các giải thưởng quốc tế, khu vực và quốc gia.

Đối tượng và điều kiện dự tuyển học bổng trình độ tiến sĩ, thực tập sinh: Cán bộ đang công tác tại các cơ quan nhà nước (biên chế hoặc hợp đồng dài hạn từ 12 tháng trở lên có thâm niên công tác tối thiểu 06 tháng kể từ khi có hợp đồng lao động đầu tiên sau khi tốt nghiệp đại học tính đến ngày hết hạn nộp hồ sơ dự tuyển) hoặc người đã tốt nghiệp đại học, thạc sĩ tại Hung-ga-ri, thỏa mãn các điều kiện chung và các điều kiện cụ thể như sau: Không quá 35 tuổi (đối với ứng viên học bổng tiến sĩ) và không quá 45 tuổi đối với ứng viên dự tuyển thực tập sinh (tính đến ngày 08/4/2013); Ứng viên học bổng tiến sĩ phải có bằng tốt nghiệp đại học hệ chính quy loại khá trở lên, có kết quả học thạc sĩ và điểm bảo vệ tốt nghiệp đạt từ 8,0 điểm trở lên theo thang điểm 10 hoặc tương đương, chưa theo học chương trình tiến sĩ trong nước hoặc ở nước ngoài; Ứng viên học bổng tiến sĩ phải có bằng tốt nghiệp đại học hoặc thạc sĩ, tiến sĩ; Có đủ trình độ ngoại ngữ để đi học tại Hung-ga-ri: ứng viên tiến sĩ phải là người đã tốt nghiệp đại học hoặc thạc sĩ tại Hung-ga-ri; ứng viên thực tập sinh phải có trình độ tiếng Hung-ga-ri hoặc tiếng Anh đạt yêu cầu của cơ sở đào tạo Hung-ga-ri; Ứng viên tốt nghiệp thạc sĩ tại Hung-ga-ri chưa có cơ quan công tác đăng ký dự tuyển học bổng tiến sĩ chỉ xem xét trường hợp tốt nghiệp trong vòng 12 tháng tính đến thời điểm hết hạn dự tuyển theo thông báo này và trên cơ sở phải có văn bản của cơ sở đào tạo tại Hung-ga-ri đồng ý tiếp nhận đào tạo chuyển tiếp nghiên cứu sinh diện Hiệp định;

Ưu tiên ứng viên có thành tích nghiên cứu khoa học (thể hiện qua các bài báo đăng trên tạp chí khoa học hoặc báo cáo tại hội nghị khoa học cấp trường trở lên và được đăng trong kỷ yếu hội nghị hoặc tham gia đề tài nghiên cứu cấp Bộ trở lên và đề tài đó đã được nghiệm thu hoặc sử dụng).

Ứng viên được chọn vào danh sách sơ tuyển của Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố sau ngày 20/3/2013 cần phải đăng kí online tại hệ thống tuyển sinh trực tuyến của Ủy ban học bổng Hung-ga-ri (http://www.scholarship.hu) trước ngày 08/4/2013 và phải chuyển bổ sung đến Cục Đào tạo với nước ngoài – Bộ Giáo dục và Đào tạo 02 bộ hồ sơ bằng tiếng Anh (trình bày trên giấy khổ A4, theo chiều dọc trang giấy) để gửi đi Hung-ga-ri đàm phán học bổng. Hồ sơ tiếng Việt để sơ tuyển: Trước ngày 10/3/2013. Hồ sơ tiếng Anh để gửi đi Hung-ga-ri: Trước ngày 01/4/2013. Lệ phí dự tuyển: 200.000đ/người.
 

Đan Thảo

Nguồn: http://gdtd.vn/channel/3009/201302/Bo-GD-DT-tuyen-sinh-di-hoc-tai-Hunggari-nam-2013-1966934/

Tiền cho giáo dục

Posted: 12 Feb 2013 01:24 AM PST

Phá cách để đãi ngộ người giỏi

* PV: Thưa giáo sư, nguồn để tạo nên đội ngũ làm toán kế cận cũng không hẳn là thiếu . Vấn đề là nhiều tiến sĩ toán của ta được đào tạo ở nước ngoài, nhưng khi về nước làm việc, họ không có thời gian nghiên cứu mà phải đi dạy thêm, đi luyện thi ĐH…

- GS Vũ Hà Văn: Thực trạng này là do chế độ trả lương của chúng ta. Lương chính thức của giáo sư ở các trường ĐH công rất thấp. Không hiểu ngân sách thiếu thốn đến mức không thể trả được lương đủ sống cho các giáo sư hay phân bổ tiền không khoa học? Trong khi đó, một số trường tư lại trả được mức lương khá cao cho người giảng dạy.

* Nhiều người cho rằng để tăng nguồn lực trả lương cho giảng viên các trường ĐH nên nỗ lực khai thác ở những kênh khác, chẳng hạn thực hiện các hoạt động nghiên cứu khoa học theo đơn đặt hàng. Giáo sư nghĩ sao?

* Một trong nhiều nguyên nhân khiến lương giáo viên thấp là do nguồn ngân sách hạn hẹp. Giáo sư thử vận dụng các công cụ toán ứng dụng của mình để giúp chính phủ làm một bài toán về lương, vừa phù hợp quỹ lương của nhà nước, vừa thu hút được người giỏi vào ngành sư phạm?


Giáo sư Vũ Hà Văn Ảnh: Xuân Phú

Cần phân chia tiền hợp lý

* Chi phí cho giáo dục của mỗi người dân hiện nay rất lớn trong khi học phí rất thấp, đặc biệt là bậc phổ thông. Chẳng hạn, việc học sinh Hà Nội phải đi học thêm là phổ biến mà phí học thêm không hề rẻ. Tiền học thêm một buổi (90 phút) của một học sinh phổ thông thường gấp đôi tiền học phí một tháng mà em đó phải đóng cho trường phổ thông công lập. Đó là chưa kể những lớp học thêm đặc biệt mà học phí mỗi buổi của mỗi học sinh là hàng trăm nghìn, thậm chí hàng triệu đồng. Giáo sư nghĩ sao về hiện tượng này?

Như vậy, người dân trực tiếp đóng góp cho việc học của con em mình, cũng như ở Việt Nam, nhưng không phải trả trực tiếp cho giáo viên (thông qua đi học thêm) mà thông qua chính quyền địa phương. Được cái là cách vận hành của chính quyền địa phương của họ đơn giản và minh bạch, vì đây là cơ quan gần dân nhất. Tất cả các khoản thu-  chi hằng năm, thậm chí hằng quý được gửi đến cho từng người dân để xem và cho ý kiến. Nếu công trình nào quá tốn kém, dân cả vùng sẽ đi họp và bỏ phiếu. Cơ quan địa phương làm việc có trách nhiệm, chi tiêu dè sẻn và không có tham nhũng.

* Với chính sách thu thuế để đầu tư cho giáo dục như vậy thì một người có nhà trên địa bàn mà không có con cái trong độ tuổi học phổ thông vẫn phải đóng góp?

- Đúng vậy. Rất nhiều gia đình khi con cái đã học xong phổ thông, bố mẹ sẽ chuyển đi ở nơi khác, tới một ngôi nhà nhỏ hơn với mức thuế thấp hơn. Vùng nào có nhà máy, có công ty lớn đóng thì những đơn vị đó phải đóng thuế tương đối nặng. Nhờ thế, người dân trong vùng đó được giảm thuế mà trường học vẫn tốt. Tất nhiên, với mô hình này, sự chênh lệch lớn giữa những thành phố nghèo và những thành phố giàu là điều không tránh khỏi. Ở những vùng mức sống còn thấp, kinh phí của chính phủ đóng vai trò chủ yếu.

Cảm ơn giáo sư Vũ Hà Văn.

Nguồn: http://nld.com.vn/20130206094859375p0c1017/tien-cho-giao-duc.htm

“Những hạt giống tốt” đang được ươm mầm

Posted: 11 Feb 2013 09:24 PM PST

Cuối năm 2012, lễ Biểu dương và trao học bổng tới các học sinh, sinh viên (HS, SV) người dân tộc thiểu số đỗ thủ khoa, điểm cao đại học, cao đẳng, đạt giải quốc gia, quốc tế năm học 2011- 2012 do Ủy ban Dân tộc chủ trì phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức đã diễn ra tại Hà Nội.

Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Hoàng Xuân Lương trao tặng

Tại buổi lễ, Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hoàng Xuân Lương đánh giá cao những thành tích mà các em HS, SV đạt được trong năm 2011-2012. Thứ trưởng khuyến khích các HS, SV cố gắng nỗ lực để tiếp tục được nhận học bổng các năm tiếp theo.

3 học sinh, sinh viên xuất sắc tại đợt trao học bổng năm nay là các em Vàng Minh Dương (dân tộc Tày), đạt giải Nhất môn tài năng trẻ HS, SV các trường văn hóa, nghệ thuật, thể thao và du lịch năm 2012; em Nông Ngọc Mai (dân tộc Tày) đạt giải Nhất môn Sinh học năm 2012; em Ma Hiêng (dân tộc Chu Ru), đỗ Thủ khoa Đại học Đà Lạt năm 2011.

Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Hoàng Xuân Lương trao tặng

Là cựu HS lớp chuyên Văn trường chuyên Chu Văn An, tỉnh Lạng Sơn, hiện tại Linh đang theo học lớp Quan hệ công chúng K31 của Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

Yêu Địa lí từ ngày còn nhỏ, cô bé người dân tộc Nùng đã nhiều lần thi ”vượt cấp” cùng các anh chị lớp lớn để khẳng định mình. Với thành tích 12 năm học đều là học sinh giỏi xuất sắc, giải Ba học sinh giỏi cấp tỉnh môn Địa lý lớp 11 (2012), giải Khuyến khích HS giỏi cấp tỉnh môn Địa lý lớp 12 (2010) – thi vượt cấp, giải Nhì HS giỏi cấp Quốc gia môn Địa lí lớp 12 (2010) – thi vượt cấp, giải Nhì HS giỏi cấp tỉnh môn Địa lí lớp 12 (2011), giải Ba HS giỏi cấp Quốc gia môn Địa lí lớp 12 (2011).

Nói về bí quyết học Địa lí, Linh chia sẻ: ”Để học tốt môn học này, bản thân em ngoài học những kiến thức trong sách giáo khoa, em đã đọc thêm nhiều sách tìm ở các thư viện hay xem chương trình Thời sự, đặc biệt là kênh VTV2 về khoa học và đời sống”. Bật mí về công việc yêu thích, Linh cho biết sau khi ra trường muốn làm công việc liên quan đến quan hệ công chúng theo đúng chuyên ngành đang học.

Hoàng Thị Luyện: Mong ước trở về quê hương phục vụ bà con dân bản

Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Hoàng Xuân Lương trao tặng

Là chị cả trong một gia đình có 3 chị em nên Hoàng Thị Luyện (xã Xuân Long, huyện Yên Bình, Yên Bái) sớm tự lập trong cuộc sống. Lên cấp 2, cô học trò người Tày đã phải học xa nhà gần 80 cây số.

Lên cấp 3, Luyện được tuyển chọn vào trường Phổ thông Dân tộc nội trú – THPT tỉnh Yên Bái và liên tiếp đạt: giải Ba môn Ngữ văn Hội thi các trường dân tộc nội trú toàn quốc (2010), giải Nhì môn Địa lí cấp tỉnh (2010) và giải Ba môn Địa lí quốc gia (2011).

Hiện tại, Luyện đang là SV chuyên ngành xã hội học, ĐH Khoa học xã hội Nhân văn Hà Nội. Chia sẻ về bí quyết học môn Địa lý, Luyện cho biết: ”Với môn Địa lý, em luôn cố gắng phát huy hết sự hữu ích của Át lát địa lý Việt Nam. Trước đây cô giáo em thường cập nhật những tài liệu Địa lý dưới dạng video khiến chúng em dễ dàng ghi nhớ”.

Ước mơ của cô học trò người Tày là trở thành một nhà nghiên cứu văn hóa, xã hội, được thực hiện những dự án giúp ích cho bà con dân bản trên chính quê hương mình.

Đoàn Hồng Uyên: Cô SV miền núi ước mơ trở thành cán bộ hải quan

Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Hoàng Xuân Lương trao tặng

Hồng Uyên là cựu HS Trường THPT chuyên Chu Văn An (Lạng Sơn), cô học trò người dân tộc Tày đã đạt giải Ba môn Ngữ văn tại kì thi HS giỏi quốc gia và cũng là một trong 30 thí sinh đạt điểm thi tốt nghiệp THPT cao nhất năm 2011 của tỉnh Lạng Sơn. Hiện tại Uyên đang theo học chuyên ngành Quản trị kinh doanh, ĐH Ngoại thương.

Uyên cùng cô giáo và các bạn trong đội tuyển Ngữ văn.

Đọc nhiều sách văn học, sách lý luận văn học và học cách suy luận, không bó buộc mình trong những lối tư duy quen thuộc là bí quyết Uyên áp dụng khi học môn Ngữ văn.

Sau giờ học, Uyên dành nhiều thời gian trau dồi thêm vốn tiếng Anh, ngoài ra cô SV năm nhất còn tranh thủ đi làm gia sư như một cách vừa rèn luyện mình, vừa có thêm kinh phí trang trải việc học hành. Uyên mong muốn sau khi tốt nghiệp sẽ được học lên cao học trở thành một cán bộ hải quan giỏi.

Đặng Vân Trang: Học Kinh tế nhưng ước mơ làm nhà báo

Uyên cùng cô giáo và các bạn trong đội tuyển Ngữ văn.

Đang là sinh viên năm hai Trường ĐH Ngoại thương, chuyên ngành Quản trị, Kinh doanh quốc tế, nhưng cô bé người dân tộc Tày Đặng Vân Trang lại muốn trở thành một nhà báo sau khi ra trường. Trang cho biết, em muốn mình được làm một công việc năng động phù hợp với tính cách của bản thân.

Trang từng tham gia Trại hè Hùng Vương tổ chức tại Phú Thọ năm 2008 cho các tỉnh miền núi phía Bắc ở bộ môn Văn lớp 10, đạt giải Ba học sinh giỏi Văn cấp thành phố và cấp tỉnh lớp 11, giải Ba HS giỏi Văn cấp thành phố và cấp tỉnh lớp 12, giải Ba HS giỏi Văn cấp Quốc gia năm 2011. Cô bé cựu HS Trường chuyên Chu Văn An (Lạng Sơn) chia sẻ bí quyết học môn Văn đó là ”Hãy là chính mình khi viết văn bởi những điều viết ra phải xuất phát từ chính suy nghĩ và cảm nhận từ trái tim mình thì lời văn mới có sức nặng” - Vân Trang chia sẻ.

Ngoài ra cần hiểu: ”Học Văn không phải là học thuộc mà cần phải suy nghĩ và có tư duy logic như học các môn tự nhiên, ngoài ra cần cảm thụ bằng chính trái tim mình để khi viết văn không bị khô cứng theo khuôn mẫu”. Với thái độ học nghiêm túc và cách nhìn nhận suy nghĩ đúng về môn Văn nên trong suốt 3 năm cấp ba, Trang luôn đạt thành tích cao trong học tập.

Chia sẻ dự định trong tương lai, Trang cho biết: ”Em muốn được trở thành một nhà báo sau khi ra trường bởi công việc này phù hợp và em cũng rất yêu thích nó”. Tuy nhiên khi được hỏi tại sao học chuyên ngành ”Quản trị kinh doanh” mà lại chọn Báo chí, Trang cho biết ngay: ”Học Quản trị kinh doanh giúp em rèn luyện được tư duy và kĩ năng rất nhiều để có những bước chuẩn bị thật tốt sau này ra làm báo”.

Phương Nhung – Phạm Oanh

Nguồn: http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/nhung-hat-giong-tot-dang-duoc-uom-mam-690532.htm

Tết ấm áp của du học sinh ở Lappeenranta, Phần Lan

Posted: 11 Feb 2013 08:24 PM PST

Cảm ơn bạn đã tham gia bình chọn, để hoàn tất lượt bình chọn bạn hãy nhập các thông tin sau:

Email


 
Xác nhận Hủy bỏ

Nguồn: http://vnexpress.net/gl/the-gioi/xuan-que-huong-2013/2013/02/tet-am-ap-cua-du-hoc-sinh-o-lappeenranta-phan-lan/

Bộ GD-amp;ĐT tuyển sinh đi học tại Bun-ga-ri năm 2013

Posted: 11 Feb 2013 07:24 PM PST

(GDTĐ)-Căn cử Thỏa thuận hợp tác về giáo dục giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam và Bộ Giáo dục, Thanh niên và Khoa học Bun-ga-ri giai đoạn 2012 – 2016, Bộ Giáo dục và Đào tạo thông báo tuyển sinh đi học sau đại học tại Bun-ga-ri theo diện Hiệp định năm 2013.

Tổng số có 1 học bổng thạc sĩ, 1 học bổng tiến sĩ và từ 1 đến 3 học bổng thực tập sinh sau đại học hoặc nghiên cứu khoa học về các ngành khoa học kỹ thuật, xã hội và nhân văn. Thời gian học chương trình thạc sĩ: 2 năm, chương trình tiến sĩ: từ 3 đến 4 năm và thời gian thực tập hoặc nghiên cứu khoa học: từ 3 tháng đến 9 tháng. Dự kiến ứng viên trúng tuyển sẽ lên đường đi học trong tháng 9/2013.

Ứng viên trúng tuyển học bổng thạc sĩ và tiến sĩ sẽ được học dự bị tiếng Bun-ga-ri 01 năm học tại Bun-ga-ri và sau khi hoàn thành khóa học dự bị sẽ được chuyển vào học chuyên ngành. Ứng viên trúng tuyển học bổng thực tập sinh phải có đủ trình độ ngoại ngữ để đi học tại Bun-ga-ri (đã học đại học hoặc sau đại học tại Bun-ga-ri hoặc có chứng chỉ tiếng Anh quốc tế tối thiểu là TOEFL 500 điểm hoặc IELTS 5.5).

Ứng viên được tiếp nhận theo chương trình học bổng này sẽ được Chính phủ Bun-ga-ri miễn phí đào tạo và cấp học bổng; Chính phủ Việt Nam cấp vé máy bay một lượt đi và về, phí đi đường, lệ phí làm hộ chiếu, visa và cấp bù sinh hoạt phí hàng tháng theo chế độ hiện hành.

Ứng viên không được tự ý thay đổi ngành học và các chi tiết đã đăng ký dự tuyển trong bất kỳ trường hợp nào. Nếu do điều kiện khách quan không thể đáp ứng được về ngành học ứng viên đăng ký dự tuyển, Bộ Giáo dục, Thanh niên và Khoa học Bun-ga-ri và Đại sứ quán Việt Nam tại Bun-ga-ri có thông báo bằng văn bản thì Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ phối hợp xử lý đề nghị thay đổi ngành học cụ thể cho ứng viên.

Điều kiện dự tuyển chung: Có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt; Đủ sức khoẻ để học tập tại nước ngoài. (Khi nhập học phía Bun-ga-ri sẽ khám lại sức khỏe. Nếu người nào bị phát hiện có bệnh, không đủ sức khỏe hoặc giả mạo hồ sơ sức khỏe để đi học sẽ phải về nước và tự chịu mọi chi phí liên quan, kể cả vé máy bay và bồi hoàn kinh phí cho Nhà nước); Ngành học đăng ký dự tuyển phải theo đúng khối ngành đã học đại học và sau đại học; Cam kết hoàn thành chương trình đào tạo và trở về phục vụ tại cơ quan cử đi học hoặc theo sự điều động của Nhà nước. Cam kết phải được cơ quan cử đi học xác nhận, có người thân bảo lãnh. Những người không hoàn thành chương trình đào tạo, tự bỏ học, bị buộc thôi học hoặc sau khi tốt nghiệp không trở về nước phục vụ phải bồi hoàn toàn bộ kinh phí cho ngân sách Nhà nước; Chưa đăng ký dự tuyển các chương trình học bổng khác để đi học tại nước ngoài trong năm 2013; Không trong thời gian bị kỷ luật, bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Đối tượng và điều kiện dự tuyển học bổng trình độ thạc sĩ:

Sinh viên chịu trách nhiệm chính thực hiện công trình đạt giải nhất Giải thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học hoặc Giải thưởng Tài năng khoa học trẻ Việt Nam từ năm 2010 đến nay, đã tốt nghiệp đại học (hệ chính quy tập trung) thỏa mãn các điều kiện chung quy định và có điểm trung bình học tập toàn khóa đại học đạt từ 7,5 trở lên (theo thang điểm 10 hoặc tương đương).

Đối tượng và điều kiện dự tuyển học bổng trình độ tiến sĩ, thực tập sinh:

Công chức, viên chức, người lao động hợp đồng đang công tác tại các trường đại học, cao đẳng, viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, trung tâm công nghệ cao hoặc các cơ quan hành chính, sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước thỏa mãn các điều kiện chung quy định; Được cơ quan công tác đồng ý và có công văn cử dự tuyển; Không quá 35 tuổi đối với ứng viên dự tuyển học bổng tiến sĩ và không quá 45 tuổi đối với ứng viên dự tuyển học bổng thực tập sinh (tính đến ngày 01/4/2013); Tốt nghiệp đại học loại khá trở lên, kết quả học thạc sĩ và điểm bảo vệ tốt nghiệp đạt từ 8,0 trở lên theo thang điểm 10 hoặc tương đương; Đã tốt nghiệp đại học/sau đại học tại Bun-ga-gi hoặc có chứng chỉ tiếng Anh quốc tế: TOEFL 500 điểm hoặc IELTS 5.5 trở lên (đối với ứng viên thực tập sinh hoặc ứng viên đăng ký đi học chương trình tiến sĩ bằng tiếng Anh);

Ưu tiên ứng viên đã có văn bản sơ bộ của cơ sở đào tạo tại Bun-ga-ri tiếp nhận học chương trình tiến sĩ/thực tập sinh và ứng viên có thành tích nghiên cứu khoa học (thể hiện qua các bài báo đăng trên tạp chí khoa học hoặc báo cáo tại hội nghị khoa học cấp trường trở lên và được đăng trong kỷ yếu hội nghị hoặc tham gia đề tài nghiên cứu cấp Bộ trở lên và đề tài đó đã được nghiệm thu hoặc sử dụng).

Ứng viên nộp 1 bộ hồ sơ tiếng Việt để sơ tuyển gồm các giấy tờ trình bày trên giấy khổ A4, theo chiều dọc trang giấy và xếp thứ tự như sau (các bản sao phải hợp lệ và có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền): Công văn của cơ quan cử dự tuyển (nếu đang làm việc cho cơ quan); Phiếu đăng ký dự tuyển; Bản sao các hợp đồng làm việc, quyết định tuyển dụng, thuyên chuyển công tác, sổ bảo hiểm xã hội hoặc bảng lương gần nhất thể hiện có đóng bảo hiểm xã hội (đối với cán bộ hợp đồng); Bản cam kết nghĩa vụ đối với lưu học sinh đi học nước ngoài; Sơ yếu lý lịch có dán ảnh và xác nhận của cơ quan công tác (đối với cán bộ), xác nhận của Ủy ban nhân dân phường, xã hoặc của trường đang theo học (đối với người mới tốt nghiệp đại học, chưa có cơ quan công tác); Bản sao giấy khai sinh (đối với người mới tốt nghiệp đại học, chưa có cơ quan công tác); Bản sao bằng, bảng điểm đại học (đối với người dự tuyển học bổng thạc sĩ); Bản sao bằng, bảng điểm đại học, thạc sĩ, tiến sĩ (đối với người dự tuyển học bổng tiến sĩ, thực tập sinh); Bản sao các bằng khen, giấy khen, văn bản hoặc giấy tờ chứng nhận các giải thưởng quốc tế, quốc gia hoặc tỉnh, thành phố và các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố, đạt giải thưởng,… (nếu có); Bản sao hợp lệ chứng chỉ ngoại ngữ tiếng Anh (đối với ứng viên thực tập sinh và tiến sĩ đăng ký học bằng tiếng Anh); Bản sao hợp lệ giấy chứng nhận con liệt sĩ; bản sao hợp lệ thẻ thương binh của bố/mẹ đẻ (nếu có); Giấy khám sức khỏe của bệnh viện đa khoa cấp tỉnh, thành phố trong đó có xác nhận đủ điều kiện đi học nước ngoài; Bản sao hóa đơn, chứng từ về việc nộp lệ phí dự tuyển; Tóm tắt kế hoạch/đề cương thực tập/nghiên cứu trong khoảng 2 trang khổ giấy A4 (đối với người dự tuyển học bổng thực tập sinh/tiến sĩ); Văn bản tiếp nhận sơ bộ của cơ sở đào tạo tại Bun-ga-ri, nếu có (đối với người dự tuyển học bổng thực tập sinh và tiến sĩ).
 
Sau khi hoàn thành hồ sơ dự tuyển, ứng viên phải quét (scan) lưu lại toàn bộ hồ sơ sang các files định dạng PDF (mỗi loại tài liệu quét thành 1 file riêng) để  đăng ký trực tuyến theo địa chỉ http://tuyensinh.vied.vn/ và đồng thời chuyển toàn bộ bản chính hồ sơ dự tuyển theo hình thức chuyển phát bảo đảm hoặc nộp trực tiếp trong giờ hành chính tại trụ sở Cục Đào tạo với nước ngoài – Bộ Giáo dục và Đào tạo, 21 Lê Thánh Tông, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Hồ sơ cần đựng trong túi hồ sơ kích thước 25cm x 34cm, mặt ngoài ghi đầy đủ thông tin chi tiết theo mẫu quy định đối với hồ sơ dự tuyển học bổng diện Hiệp định đi Bun-ga-ri năm 2013 (Phụ lục 3).

(Xem thêm thông tin, các mẫu văn bản liên quan tại các websites: www.vied.vn hoặc www.moet.gov.vn).

Hồ sơ hợp lệ là hồ sơ có đầy đủ giấy tờ theo quy định được nộp trong thời hạn quy định của Thông báo tuyển sinh và đã nộp lệ phí tuyển sinh theo quy định. Hồ sơ dự tuyển không được trả lại trong bất kỳ trường hợp nào.

Thời hạn nhận hồ sơ: trước ngày 10/3/2013 (tính theo dấu bưu điện đi hoặc sổ theo dõi nhận hồ sơ của Cục Đào tạo với nước ngoài)Lệ phí dự tuyển: 200.000đ/người cần  được chuyển đến Cục Đào tạo với nước ngoài (Cục ĐTVNN) trước ngày 10/3/2013.

Đan Thảo

Nguồn: http://gdtd.vn/channel/3009/201302/Bo-GD-DT-tuyen-sinh-di-hoc-tai-Bungari-nam-2013-1966924/

Comments