Nghề Giáo - Giáo viên - Giáo dục

Nghề Giáo - Giáo viên - Giáo dục


Ngắm những ứng viên Hoa khôi ĐH Kinh doanh công nghệ 2012

Posted: 20 Dec 2012 08:28 PM PST


Cuộc thi Miss HUBT – Duyên dáng Kinh doanh năm 2012 là cuộc thi thường niên 2 năm tổ chức một lần nhằm tôn vinh tài năng và trí tuệ, sự duyên dáng của các nữ sinh

Từ hơn 150 thí sinh đăng ký, qua các vòng sơ khảo trắc nghiệm kiến thức, phỏng vấn, trình diễn, hùng biện, Ban Giám khảo đã chọn được 19 thí sinh xuất sắc có kiến thức và ngoại hình tốt nhất vào tham dự đêm chung kết.
 

Tham gia cuộc thi, các thí sinh đã cùng nhau tham gia các hoạt động xã hội như hiến máu tình nguyện, thăm và tặng quà trẻ em thiệt thòi ở làng trẻ hòa bình.
 


Cuộc thi không chỉ chú trọng nhan sắc tài năng mà cũng quan tâm đề cao lòng nhân ái của các nữ sinh.
 


Ban tổ chức hi vọng đêm chung kết dự kiến sẽ tìm ra gương mặt đại diện xứng đáng đại diện cho nữ sinh toàn trường.
 


Dự kiến đêm chung kết sẽ được tổ chức vào tối nay 20/12.
 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nguồn: http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Ngam-nhung-ung-vien-Hoa-khoi-DH-Kinh-doanh-cong-nghe-2012/261424.gd

Nam sinh cá biệt và nước mắt người mẹ giáo viên

Posted: 20 Dec 2012 08:26 PM PST

- Bố mẹ cũng không khuyên được. Bây giờ bố em ấy đã bỏ mặc coi như không có con. Thậm chí em ấy đã bỏ nhà đi theo bạn mấy ngày liền rồi mẹ lại đội mưa gió đi tìm. Mẹ em ấy đã khóc, buồn rất nhiều và đã phải quyết định một cách đau đớn: gọi công an đến bắt con trai mình.

 

Tâm sự với VietNamNet, giáo viên – người kể câu chuyện này cho biết bản thân chị và các giáo viên đang cố gắng để đưa cậu học trò cá biệt thay đổi….

Chị nói, tâm lý trọng nam khinh nữ đã ăn sâu vào nếp nghĩ của người dân Việt Nam muốn có con trai để nối dõi tông đường, để nuôi cha mẹ khi về già… Chính điều đó đã làm cho các bậc cha mẹ thường nuông chiều con trai. Nhưng bố mẹ các em không biết rằng cách giáo dục như vậy của họ đã làm hư các em.

Năm nay, tôi được giao nhiệm vụ giảng dạy cho khóa lớp 10. Với cô trò mọi người đều xa lạ. Nhưng chỉ 2 tuần đầu năm học mới, lớp 10A6 mà tôi dạy đã nổi lên một trường hợp học sinh rất cá biệt.

Trong lớp em ấy thường xuyên không chép bài và luôn nằm ra bàn học. Tiết nào tôi cũng phải nhắc nhở. Khi mắng em ấy còn thách thức nếu cô mắng nhiều em sẽ nghỉ học.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Tôi nhận thấy sự khác biệt của em với các bạn khác nên đã trao đổi với giáo viên chủ nhiệm. Tôi có tìm hiểu qua các bạn trong lớp và được biết mẹ em ấy cũng là nhà giáo, bố cũng làm trong nhà nước. Nhưng tại sao lại để con như vậy?

Một buổi chiều tối mù mịt tôi thấy có tiếng gọi ngoài cổng. Tôi chạy ra và thấy mẹ của em học sinh ấy. Nhà tôi cách trường khá xa khoảng 15km. Mẹ em ấy nói đã tìm từng nhà giáo viên bộ môn dạy em ấy dù nhà xa tới đâu.

Chị đã khóc rất nhiều khi gặp tôi. Vì bố em ấy là con trai trưởng nên chị phải sinh bằng được con trai. Cũng may chị sinh cháu là thứ 2 đã được con trai. Cả nhà ông bà, bố mẹ ai cũng chiều thích gì được nấy; con mắc lỗi thì ông bà mắng bố mẹ nên dạy con cũng khó. Từ nhỏ tới lớn không ái dám đánh cháu. Chính vì vậy càng lớn e càng hư và khó bảo hơn.

"Nếu như cho chị đổi 100 đứa con gái lấy nó chị cũng đổi em ạ" – mẹ em đã nói với tôi trong nước mắt.

Em ấy đã mượn xe, mượn điện thoại của bạn rồi bán. Khi bạn bè khuyên ngăn, đòi điện thoại thì đánh bạn. Bố mẹ cũng không khuyên được. Bây giờ bố em ấy đã bỏ mặc coi như không có con.

Thậm chí em ấy đã bỏ nhà đi theo bạn mấy ngày liền rồi mẹ lại đội mưa gió đi tìm. Mẹ em ấy đã khóc, buồn rất nhiều và đã phải quyết định một cách đau đớn: gọi công an đến bắt con trai mình.

Nhưng lỗi của em chưa đủ lớn và em chưa đủ tuổi để bị giam nên được thả. Các bạn của em cũng nói với tôi: bạn ấy chỉ chơi với các anh lớn và các anh ấy đều bị nghiện hết cô ạ. Các anh ấy thường bắt bạn đi ăn trộm để có tiền mua thuốc.

Em tâm sự với bạn rằng bố mẹ đã ra tòa li hôn vì em. Bố mắng, đánh mẹ vì đã làm hư em. Đó là kết cục buồn của một gia đình với bao mong mỏi, hi vọng vào đứa con trai của mình.

Nhưng do cách giáo dục không đúng nên đã đưa vào xã hội một con người không lành lặn về đạo đức và làm tan rã một gia đình hạnh phúc.

Tôi thiết nghĩ, nếu như việc mẹ em ấy đội mưa gió đi từng nhà giáo viên để nhờ quan tâm, chú ý tới con mình sớm hơn từ khi em còn nhỏ chứ không đợi tới lúc em hư rồi mới làm thì có lẽ mọi thứ sẽ không tan vỡ.

Em hay nghỉ học không lý do. Biết chuyện nên mỗi lần em lên lớp, trong giờ tôi gọi em phát biểu nhiều hơn để em chú ý hơn và thấy mình được mọi người quan tâm. Hôm nào em ấy nghỉ học tôi phải gọi cho mẹ em và báo cho giáo viên chủ nhiệm.

Xót xa thay, em giờ như kẻ chạy trốn bất cần đời. Nhà em cách trường gần 10km nên phải thuê trọ khi học ở đây. Đã bao lần ban giám hiệu nhà trường và giáo viên đến tận nhà hay tới phòng trọ nhưng chỉ gặp được mẹ em.

Giờ thì em nghỉ học đã hơn 2 tháng. Như một người tuyệt vọng, mẹ em cất công đi tìm con trong tuyệt vọng. Em bỏ trốn mỗi lần mẹ hay người thân, nhà trường tới thăm. Bạn bè từng khuyên em tới trường thì bị đánh thâm tím mặt mày. Giáo viên chúng tôi cũng chới với trước nỗi đau của mẹ em-một người đồng nghiệp và chỉ biết nhắc nhau phải chăm chút hơn cho tổ ấm nhỏ bé của chính mình để không rơi vào hoàn cảnh tương tự.

Tối hôm rồi mẹ em thất thểu đến gặp tôi. Chị nói trong nước mắt: "Em ơi, có khi chị mất cháu thật rồi!"

Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/101378/nam-sinh-ca-biet-va-nuoc-mat-nguoi-me-giao-vien.html

Trường đào tạo hàn lâm, sinh viên bị doanh nghiệp “lắc đầu”

Posted: 20 Dec 2012 08:25 PM PST

Những năm gần đây, các trường đại học (ĐH) và doanh nghiệp (DN) đã có nhiều hoạt động "bắt tay" để thực hiện mục tiêu đào tạo theo gắn liền với nhu cầu thực tế. Nhưng sự kết hợp giữa bên đào tạo và bên sử dụng gặp không ít khó khăn vì bên nào cũng có lý của riêng mình nên nguồn nhân lực vẫn chưa thoát khỏi tình trạng "thừa" lại vừa "thiếu". Nhất là trong tình hình kinh tế khó khăn, "độ vênh" càng lộ rõ khi nhiều sinh viên (SV) tốt nghiệp, kể cả bằng Khá, Giỏi vẫn không xin được việc hoặc chấp nhận làm những việc không hề liên quan đến ngành nghề được đào tạo.

Trường ĐH và doanh nghiệp: Bắt tay nhưng khó chặt
Trường học ngày càng có nhiều chương trình hợp tác với doanh nghiệp nhằm gắn kết đào tạo theo nhu cầu xã hội.

Đòi hỏi SV đáp ứng yêu cầu DN: Bất khả thi?

DN chê SV tốt nghiệp ra trường yếu, không đáp ứng được yêu cầu công việc thực tế, thậm chí nhiều DN bất mãn với kỹ năng của nguồn nhân lực có lẽ là điều mà lãnh đạo trường ĐH nào cũng nghe, cũng biết. Họ lắng nghe ý kiến của DN là "hãy đào tạo nguồn nhân lực theo yêu cầu thực tiễn" nhưng nhiều ý kiến cho rằng việc đào tạo ở giảng đường không thể chạy theo và đáp ứng được mọi yêu cầu của DN.

Hiện nay nhiều SV tốt nghiệp ĐH rất khó xin việc làm
Hiện nay nhiều SV tốt nghiệp ĐH rất khó xin việc làm.

Ông Trần Anh Tuấn – phó giám đốc thường trực Trung tâm dự báo nhu cầu nguồn nhân lực và Thông tin thị tường lao động TPHCM nhìn nhận thực trạng trong thời buổi khó khăn, khan hiếm việc làm nhưng nhiều DN vẫn không tuyển được người làm vì họ đòi hỏi nguồn nhân lực cao.

Ông Tuấn cho rằng đòi hỏi trường ĐH đào tạo nhân lực phải đáp ứng mọi yêu cầu của DN là không thể vì mỗi doanh nghiệp có môi trường, bí quyết làm việc riêng, trường học không thể chạy theo… từng yêu cầu đó.

Đồng tình với ý kiến trên, TS Tân Hạnh – phó giám đốc Học viện Công nghệ Bưu chính viễn thông TPHCM cho biết trường mình đào tạo ngành nghề mang tính đặc thù, thuộc Tập đoàn Bưu chính viễn thông nên trước đây SV ra trường là có việc ngay. Từ năm 2007, số lượng tuyển sinh đông không chỉ đáp ứng trong ngành mà hướng đến nhu cầu xã hội nên trường chủ động tiếp cận với doanh nghiệp để tiếp thị nguồn nhân lực của mình.

Theo ông Hạnh, SV yêu cầu nhà trường phải đào tạo sao cho đúng yêu cầu DN và DN đòi hỏi trường ĐH phải đáp ứng mọi yêu cầu của mình là thiếu thực tế. Vì trường ĐH có khung đào tạo chung chứ không phải muốn là có thể vượt qua được khung đào tạo đó.

Nhà trường không theo kịp xã hội

Ông Trần Thanh Liên – Tổng công ty Điện lực TPHCM cho rằng phía việc kết hợp đào tạo giữa bên sử dụng và bên đạo tạo có nhiều tích cực nhưng còn nhiều kẽ hở. Cụ thể trong lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ, trong quá trình đào tạo 4 năm ở trường khi SV tốt nghiệp đi làm thì công nghệ ngoài xã hội đã thay đổi rất nhiều, nhà trường theo không kịp.

"Nhà trường cần phối hợp với những nhà thầu tiên tiến, cung cấp các tài liệu kỹ thuật cho SV nghiên cứu và tiếp cận với các kỹ thuật mới nhất", ông Liên nói.

Hiện nay nhiều SV tốt nghiệp ĐH rất khó xin việc làm
Nhà trường và doanh nghiệp cần gắn kết chặt hơn còn SV cần chủ động hơn nữa để cùng giải quyết bài toán nguồn nhân lực vừa thừa lại vừa thiếu.

Dù khẳng định SV không thể đáp ứng mọi yêu cầu của DN nhưng TS Lê Hữu Phước đồng tình rằng sự kết hợp giữa nhà trường cần thắt chặt, cụ thể hơn qua việc trao đổi thông tin. Các trường nên cung cấp thông tin về các sản phẩm đào tạo đã, đang và sắp có của mình cho thị trường. Còn phía tuyển dụng phải cho nhà trường biết về nhu cầu và yêu cầu đối với nhân sự.

Theo ông Phước, trong bối cảnh như hiện này mà yêu cầu SV làm đúng ngành là rất khó trừ một số ngành đặc thù. Thế nên không nên đòi hỏi đúng ngành mà nên chú ý đến việc đào tạo liên ngành.

“SV ngoài việc học chuyên nhành chính có thể chọn thêm những môn học để trang bị thêm kiến thức kỹ năng khác cho mình thì khả năng tìm việc sẽ cao hơn. Thay vì SV học bốn năm để lấy một bằng chuyên ngành thì có thể cho SV học 5 hoặc 6 năm để lấy bằng đôi, giảm thời gian phải học văn bằng hai", TS Lê Hữu Phước đề xuất.

DN chỉ hỗ trợ, ngại trách nhiệm

Lâu nay chúng ta nghe rất nhiều về những lời chê về việc đào tạo chưa theo yêu cầu xã hội của trường ĐH, còn trách nhiệm của bên sử dụng nguồn nhân lực lại ít được đề cập. Trong khi, trong điều kiện như hiện nay DN có vai trò rất lớn trong việc hoàn thiện nguồn nhân lực, là môi trường để SV áp dụng các kiến thức ở nhà trường vào thực tế.

Sự kết hợp của các DN chủ yếu chỉ mang tính hỗ trợ, chưa gắn liền với trách nhiệm. Không ít DN khi tuyển người, ngay với SV vừa tốt nghiệp đã đòi hỏi phải có kinh nghiệm làm việc hay các kỹ năng nhỏ lẻ theo môi trường của mình. Họ chú trọng đến việc ứng viên phải đem lại hiệu quả ngay mà ngại "đầu tư" đến việc đào tạo thêm.

"Không một ai vừa tốt nghiệp mà có thể làm việc được ngay trong một môi trường mới. Theo tôi, để có nguồn nhân lực cao thì bên sử dụng cũng phải có trách nhiệm hỗ trợ SV biến các kiến thức ở trường học có thể ứng dụng được vào thực tế", đại diện công ty Hùng Hậu thẳng thắn.

Người này cho biết, công ty sẵn sàng nhận những SV năm cuối, SV ra trường trong lĩnh vực mình cần đến thực tập để đào tạo thêm. Qua đó sẽ giữ lại những ứng viên có năng lực và phù hợp.

Không ít SV cũng sẵn sàng như vậy nhưng khó khăn của họ chưa thể lập ra một bộ phận chuyên môn để hợp tác trong việc đào tạo với trường ĐH. Họ cũng không muốn mạo hiểm đầu tư thời gian, tiền bạc để đào tạo thêm vì ở góc độ kinh doanh hiển nhiên họ muốn tuyển người có thể làm việc ngay. Chưa kể lo ngại “cốc mò cò xơi”, người mới đi làm có chuyên môn, kinh nghiệm thì rất dễ nhảy việc.

Để có nguồn nhân lực cao, SV ra trường không rơi vào cảnh thất nghiệp hay làm trái ngành, nhà trường và DN phải có hợp tác chặt chẽ và mang tính trách nhiệm hơn. Bên cạnh đó, nhiều ý kiến cho rằng nhà trường và DN chỉ mang tính chất là môi trường, điều quan trọng nhất là sự nỗ lực, cố gắng của chính SV. Họ phải biết chủ động trau dồi cho mình kiến thức, các kỹ năng, tinh thần tự học, thái độ làm việc hợp tác, tiếp cận với doanh nghiệp… thì kiến thức được học mới có thể đến sát với nhu cầu.

Hoài Nam

Nguồn: http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/truong-dao-tao-han-lam-sinh-vien-bi-doanh-nghiep-lac-dau-676089.htm

Các trường, khoa sư phạm cần thay đổi cách đào tạo

Posted: 20 Dec 2012 08:25 PM PST

(GDTĐ)- Yêu cầu đổi mới giáo dục đặt ra cho các trường, khoa sư phạm cần thiết phải thay đổi cách đào tạo, bồi dưỡng năng lực cho người giáo viên tương lai. Việc không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo đối với sinh viên sư phạm sẽ góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng của cả hệ thống giáo dục nói chung. Báo GDTĐ đã có cuộc trao đổi với TS. Nguyễn Văn Đệ – Hiệu trưởng Trường ĐH Đồng Tháp xung quanh vấn đề này.

TS.Nguyễn Văn Đệ - Hiệu trưởng Trường ĐH Đồng Tháp. Ảnh: gdtd.vn
TS.Nguyễn Văn Đệ – Hiệu trưởng Trường ĐH Đồng Tháp.

PV. Theo ông, đổi mới hoạt động đào tạo giáo viên trong các trường, khoa sư phạm hiện nay cần tập trung vào nội dung chính nào?

TS. Nguyễn Văn Đệ: Để phù hợp cơ chế mới trong bối cảnh hội nhập, tinh thần chung là các trường, khoa sư phạm phải quán triệt quan điểm: nhà trường dạy những điều người học cần, xã hội cần, nền kinh tế cần, chứ không chỉ dạy cái giáo viên có; đồng thời, cần làm sáng tỏ: cái gì cần dạy ở phổ thông và dạy như thế nào?

Trên tinh thần như vậy, điều đầu tiên là trường, khoa sư phạm hiện nay cần đưa giáo dục kỹ năng sống vào giảng dạy. Hiện nay, Bộ GDĐT đang tích cực chuẩn bị các điều kiện để đưa môn học giáo dục kỹ năng sống vào nhà trường phổ thông; do vậy, sinh viên các trường (khoa) sư phạm cũng cần được giáo dục kỹ năng sống – một sự chuẩn bị năng lực nghề nghiệp cấp thiết để họ tham gia giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phổ thông sau này.

Cùng với đó là đào tạo cách dạy phương pháp học. Đã có một thời gian dài, chương trình đào tạo của các trường sư phạm tập trung vào chuẩn bị cho người giáo viên tương lai nắm vững hoạt động dạy, những phương pháp, kĩ năng tổ chức thực hiện hoạt động dạy. Ngày nay, theo chúng tôi, vấn đề quan trọng nhất để những giáo viên phổ thông tương lai biết dạy cách học là mỗi giảng viên sư phạm phải thường xuyên rèn luyện cho sinh viên kỹ năng tự học thông qua bộ môn mình phụ trách.

Điều tiếp theo cần làm là đổi mới hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Các trường, khoa sư phạm cần chủ động chuyển hướng từ tập trung vào đào tạo kiến thức chuyên môn thuộc môn học sẽ phải dạy khi ra trường là chủ yếu sang tập trung đào tạo các năng lực nghề nghiệp, đảm bảo sinh viên tốt nghiệp biết hành động có hiệu quả trong các hoạt động nghề nghiệp.

Việc bồi dưỡng kỹ năng giải quyết vấn đề cũng phải được quan tâm. Ngoài ra, trường sư phạm cần hình thành kỹ năng hợp tác cho sinh viên sư phạm. Những kỹ năng hợp tác cụ thể mà các trường sư phạm cần quan tâm rèn luyện cho sinh viên là kỹ năng hợp tác với đồng nghiệp, hợp tác với học sinh và hợp tác với các lực lượng giáo dục khác…

PV. Trước xu thế đổi mới nền giáo dục và trong bối cảnh hội nhập, các trường sư phạm cần quan tâm bồi dưỡng nhiều hơn nữa các năng lực cơ bản cho sinh viên như: năng lực khoa học, năng lực hiểu trình độ học sinh, năng lực thiết kế tài liệu học tập, năng lực ngôn ngữ, năng lực nắm vững kĩ thuật dạy học. Ý kiến của ông trước vấn đề này thế nào?

TS. Nguyễn Văn Đệ: Đúng vậy, để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ hoạt động dạy học ở trường phổ thông, ngay khi còn ngồi trên giảng đường đại học,  đòi hỏi sinh viên sư phạm cần được trang bị nhiều năng lực khác nhau.

Một yêu cầu đặt ra đối với sinh viên sư phạm là cần phải có khả năng hiểu biết về đặc điểm tâm lí của học sinh, đặc biệt là sự hiểu biết về trình độ của học sinh trong quá trình dạy học. Đây là một năng lực mang tính nghề nghiệp của sinh viên sư phạm. Tuy nhiên, hiện nay do tính tích cực học tập của sinh viên sư phạm chưa cao, mối liên hệ giữa trường sư phạm và trường phổ thông chưa chặt chẽ, các hoạt động thăm lớp, dự giờ của sinh viên sư phạm chưa nhiều. Đây là một trong những nguyên do khiến cho khả năng hiểu tâm lí học sinh của sinh viên sư phạm còn nhiều hạn chế.

Năng lực thiết kế tài liệu học tập là khả năng làm cho tài liệu học tập phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh. Năng lực này biểu hiện ở khả năng gia công và sáng tạo kiến thức bài giảng của giáo viên, tài liệu học tập trở nên phù hợp tối đa với đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm cá nhân học sinh, và đảm bảo logic sư phạm.

Năng lực ngôn ngữ là một trong những năng lực quan trọng của người giáo viên, vì ngôn ngữ là "phương tiện" chính trong dạy học và giáo dục. Thực tế hiện nay cho thấy sau 12 năm học Tiếng Việt ở trường phổ thông, số đông các sinh viên đại học vẫn chưa thật sự tinh thông tiếng mẹ đẻ. Nguyên nhân của thực trạng này một phần có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ bộ môn, chương trình, sách giáo khoa và năng lực của giáo viên ở bậc học phổ thông. Sự hạn chế về khả năng ngôn ngữ chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến nhiều sự bất cập khác trong chất lượng đào tạo.

Năng lực truyền đạt tài liệu học tập là khả năng nắm vững cách thức tổ chức và điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh qua bài giảng. Năng lực này là kết quả của một quá trình học tập nghiêm túc và rèn luyện tay nghề. Những năng lực này thường được hình thành thông qua việc sinh viên tích cực luyện tập trong các giờ rèn luyện nghiệp vụ sư phạm ở trường sư phạm hoặc trường phổ thông. Tuy nhiên, hiện nay sinh viên vẫn chưa dành nhiều thời gian cho công việc này.

Ngoài ra, để đáp ứng yêu cầu của xã hội đối với sự hiểu biết của giáo viên đòi hỏi sinh viên sư phạm không ngừng học hỏi, tìm tòi để mở rộng kiến thức. Tuy nhiên, rời trường phổ thông bước vào trường sư phạm, sinh viên mang theo rất ít khả năng tự học và ý thức chủ động. Bên cạnh đó, các trường đại học hiện nay cũng chưa có nhiều giải pháp hữu hiệu để giúp sinh viên nâng cao khả năng và ý thức tự học. Đây là vòng lẩn quẩn khép kín giải thích vì sao học sinh các cấp học và sinh viên hiện nay đều thiếu khả năng tự học và ý thức chủ động trong học tập.

Theo chúng tôi, kết quả của hiện tượng này là do thói quen và kĩ năng tự học của nhiều giáo viên còn hạn chế. Chính vì vậy, ngay khi vào trường sư phạm, nhà trường cần hình thành cho sinh viên sư phạm thói quen và tính tích cực học tập, tư duy sáng tạo trong làm việc để các thầy cô giáo không ngừng hoàn thiện năng lực của bản thân đáp ứng được các yêu cầu của xã hội.

cxcxx
Sinh viên Trường ĐH Đồng Tháp

PV.Vậy, Trường ĐH Đồng Tháp đã thực hiện việc đổi mới này như thế nào, thưa ông?

TS. Nguyễn Văn Đệ: Thực hiện đổi mới cần những giải pháp toàn diện, học chế tín chỉ là phương thức đào tạo tôn trọng người học, lấy người học làm trung tâm sẽ là phù hợp nhất nếu biết khai thác các mặt tích cực và khắc phục các nhược điểm của hệ thống này. Triển khai từng bước hệ thống tín chỉ, chọn hướng tiếp cận từ người học, vì người học, theo quan điểm này, Trường Đại học Đồng Tháp thực hiện đổi mới qua các hoạt động cơ bản sau:

1. Thay đổi nhận thức về vai trò của sinh viên trong quá trình đào tạo cho cán bộ, giảng viên và sinh viên trong trường, đặc biệt là đối với sinh viên. Biện pháp chủ yếu qua các hình thức sinh hoạt đầu khóa học, đầu năm học, sinh hoạt lớp chủ nhiệm. Sinh viên phải nhận thức được vai trò tự chủ trong đào tạo và chủ động trong học tập, nghiên cứu; hiểu biết về quyền lợi và trách nhiệm trong học chế tín chỉ, để từ đó tự chịu trách nhiệm về kết quả đào tạo. Qua những bài học rút ra sau hội nghị tổng kết 4 năm đào tạo theo hệ thống tín chỉ, nhà trường có kế hoạch đưa môn học nhập môn ngành vào chương trình giáo dục để khẳng định rằng đây không chỉ là nhận thức, mà còn là kiến thức, kỹ năng cần thiết cho quá trình tự đào tạo của sinh viên. Đây có thể ví như điều kiện cần phải có của quá trình đổi mới, nếu không có, nghĩa là sinh viên chưa sẵn sàng đổi mới, thì mọi nỗ lực hỗ trợ khác của nhà trường cũng trở lên vô nghĩa.

2. Đổi mới mục tiêu giáo dục, chuyển từ mục tiêu "dạy" sang mục tiêu "học", chuyển từ nặng về "kiến thức" sang "cách học và năng lực nghề nghiệp"; xây dựng chuẩn đầu ra và công khai chuẩn đầu ra.

3. Xây dựng mô hình đào tạo theo hệ thống tín chỉ phù hợp với điều kiện của nhà trường, từng bước triển khai các chức năng của hệ thống nhằm tạo điều kiện cho sinh viên làm chủ quá trình đào tạo của mình, tiến tới cá nhân hóa quá trình đào tạo. Trong mô hình đào tạo của mình, nhà trường đã xây dựng được mô hình rèn luyện nghiệp vụ sư phạm theo hướng tích hợp, cá nhân hóa và có sự tham gia của các trường phổ thông, mầm non.

4. Phát triển chương trình đào tạo được coi là công việc thường xuyên sau mỗi năm học, khóa học. Qua 4 năm đào tạo, nhà trường đã tổ chức 2 lần phát triển chương trình một cách toàn diện, nhằm từng bước cung cấp các môn học đáp ứng nhu cầu học tập và yêu cầu của ngành nghề, của xã hội.

Trong hai năm học gần đây, do chưa xây dựng được các môn học về các kỹ năng mềm, nhà trường đã hợp đồng với Công ty CP Quản lý Tri thức Quốc tế G-BI (Hà Nội) hợp tác thực hiện Dự án "Chuyển giao kinh nghiệm và phương pháp làm việc hiệu quả" để trang bị các kỹ năng mềm cho sinh viên. Trong năm học 2012 – 2013, nhà trường đã ký duyệt dự án xây dựng môn học kỹ năng mềm để đưa vào chương trình đào tạo.

5. Chuẩn bị môi trường học tập tích cực, tạo điều kiện cho sinh viên tự học và chủ động trong học tập, nghiên cứu. Trong học chế tín chỉ, sinh viên phải tự học rất nhiều, vì vậy môi trường học tập là một trong các điều kiện quan trọng trong quá trình đổi mới đào tạo và nâng cao chất lượng đào tạo. Môi trường học tập tích cực sẽ là những tác động tích cực từ bên ngoài vào quá trình tự đào tạo của sinh viên, chẳng hạn như: truyền thống, văn hóa nhà trường; cơ sở vật chất phục vụ học tập (đặc biệt là cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin); đội ngũ giảng viên và cố vấn học tập; chương trình giáo dục…

Trong 5 hoạt động trên, nếu coi hoạt động 1 là điều kiện cần, thì bốn hoạt động sau sẽ là điều kiện đủ cho quá trình đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo của Trường Đại học Đồng Tháp. 

Xin trân trọng cảm ơn ông!

Hiếu Nguyễn (thực hiện)

Nguồn: http://gdtd.vn/channel/3005/201212/Cac-truong-khoa-su-pham-can-thay-doi-cach-dao-tao-1965752/

Học vượt để tốt nghiệp sớm

Posted: 20 Dec 2012 02:35 PM PST

Tuy nhiên, SV cần cân nhắc kỹ có nên chọn học vượt hay không.

Quy chế 43 về đào tạo theo học chế tín chỉ của Bộ GDĐT quy định: "Điều kiện xét tốt nghiệp, công nhận tốt nghiệp khi SV tích lũy đủ số học phần quy định cho chương trình đào tạo với: Khối lượng không dưới 180 tín chỉ đối với khóa đại học 6 năm, 150 tín chỉ đối với khóa đại học 5 năm, 120 tín chỉ đối với khóa đại học 4 năm.

Hiệu trưởng quy định cụ thể khối lượng kiến thức tối thiểu cho từng chương trình được triển khai đào tạo trong phạm vi trường mình". Do đó, tùy theo năng lực và điều kiện của mình mà SV có thể đăng ký học vượt để tốt nghiệp trước thời hạn.

Bắt đầu đào tạo theo hệ tín chỉ từ năm 2008, đến nay, trường ĐH Nông Lâm TPHCM có hơn 30 sinh viên tốt nghiệp trước thời hạn.

TS Trần Đình Lý, Trưởng phòng Quản lý Đào tạo của trường này cho biết: Khoá 2008 có khoảng 30 SV học theo hệ tín chỉ đã tốt nghiệp trước thời hạn 1 học kỳ. Khóa 2009 có 4 sinh viên vừa nhận bằng tốt nghiệp giữa tháng 12 này, trước thời hạn 1 năm.


Học vượt để tốt nghiệp sớm

TS Phạm Tấn Hạ, Trưởng phòng Đào tạo Trường ĐH Khoa học Xã hội Nhân văn (ĐH Quốc gia TPHCM) cũng cho biết, trường bắt đầu áp dụng đào tạo theo hệ tín chỉ từ năm 2006.

Đến nay, trường có khoảng vài trăm sinh viên ở các khóa nhận bằng tốt nghiệp trước thời hạn.

Trong khi đó, tại các trường khác thuộc ĐH Quốc gia TPHCM như ĐH Bách khoa, ĐH Khoa học tự nhiên… đi tiên phong trong đào tạo theo hình thức tín chỉ từ những năm 1993, 1994, đến nay cũng có nhiều sinh viên học hệ tín chỉ tốt nghiệp trước thời hạn. Tại các trường khác như ĐH Sư phạm kỹ thuật TPHCM, ĐH Tiền Giang… cũng có một số sinh viên hệ tín chỉ tốt nghiệp trước thời hạn.

Theo một số sinh viên vừa nhận bằng tốt nghiệp trước thời hạn của trường ĐH Nông Lâm TPHCM, học vượt giúp sinh viên tiết kiệm thời gian, tiền bạc, có thể đi làm sớm nhưng đổi lại phải chịu áp lực lớn trong học tập.

Nguyễn Thị Bích Huệ, SV trường ĐH Nông Lâm TPHCM, một trong bốn sinh viên vừa tốt nghiệp trước hạn một năm cho biết: Học vượt không khó nếu bạn quyết tâm ngay từ đầu, lên kế hoạch học tập nghiêm túc và kiên trì thực hiện. Học vượt giúp chúng ta tiết kiệm được thời gian, tiền bạc nhưng ngược lại áp lực học tập lớn.

Cân nhắc kỹ khi chọn học vượt

Theo phân tích của các chuyên gia giáo dục, ưu điểm của đào tạo theo tín chỉ là giúp SV tự sắp xếp kế hoạch học tập, tự cân đối thời gian, xác định năng lực bản thân và ra trường theo thời hạn mà mình chọn.

TS Phạm Tấn Hạ cho biết: Việc đăng ký học vượt để có thể tốt nghiệp trước thời hạn phải tuỳ vào năng lực, điều kiện của từng sinh viên.

Nếu sinh viên nào thấy mình có đủ năng lực, sức khỏe thì nên đăng ký học vượt. Học theo hệ tín chỉ thì thời gian học là do sinh viên hoàn toàn chủ động chọn, nhà trường chỉ đưa ra lịch học để các em chọn mà thôi.

TS Nguyễn Kim Quang, Phó hiệu trưởng Trường ĐH Khoa học tự nhiên (ĐH Quốc gia TPHCM) cho rằng: SV học vượt phải học nhiều môn trong mỗi học kỳ so với bình thường.

SV có sức học trung bình nếu đăng ký học vượt sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy theo TS Quang, nếu không có nhu cầu ra trường sớm thì không nên chọn việc học với tốc độ cao, vì rất dễ đuối sức và sẽ không hoàn thành tốt kế hoạch học tập.

"Có những sinh viên chọn những môn học dễ để hoàn thành đủ tín chỉ để ra trường sớm, cũng có những sinh viên chọn những môn học khó nhưng phù hợp, bổ trợ kiến thức cho ngành nghề của mình sau này và họ chấp nhận tốt nghiệp đúng hạn hoặc lâu hơn. Vấn đề là do sinh viên định hướng được hướng tương lai của mình như thế nào, từ đó các em mới đưa ra việc học vượt hay không", TS Quang nói.

TS Nguyễn Thanh Nam, Trưởng phòng Đào tạo, Trường ĐH Bách khoa (ĐH Quốc gia TPHCM) cho rằng, mục tiêu của đào tạo tín chỉ có thể tạo điều kiện để SV học tập phù hợp với hoàn cảnh và năng lực của bản thân.

Ví dụ sinh viên có năng lực thì học vượt để tốt nghiệp sớm, những sinh viên có hoàn cảnh khó khăn vừa đi học vừa đi làm thì phải chọn theo cách học kéo dài thời gian tốt nghiệp, miễn sao sinh viên hoàn thành đủ số tín chỉ thì thôi.

"Những người thật sự tài giỏi và học vượt hết cỡ thì có thể sau 2 năm là tốt nghiệp, nhưng có người sau 6, 7 năm mới tốt nghiệp. Người đi xe đạp thì không để đua với ô tô, nhưng họ thấy đi xe đạp lại thích hợp với bản thân. Việc học theo hệ tín chỉ cũng thế, sinh viên chọn hướng học vượt hay chọn hướng đi chậm mà chắc là do sinh viên tự quyết", ông nói.

Nguồn: http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/hoc-vuot-de-tot-nghiep-som-675871.htm

Tiếp tục đổi mới công tác GD-ĐT trong quân đội

Posted: 20 Dec 2012 02:35 PM PST

(GDTĐ)- Sáng nay (20/12), tại Hà Nội, Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ GD-ĐT tổ chức Hội nghị giao ban về công tác giáo dục và đào tạo trong quân đội năm 2012 nhằm tổng kết công tác phối kết hợp đạo, triển khai giáo dục và đào tạo trong các nhà trường trong quân đội, bàn phương hướng công tác này trong năm 2013 và những năm tiếp theo.

Trung tướng Phạm Xuân Hùng, Ủy viên TƯ Đảng, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam và Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Vinh Hiển đã cùng chủ trì. Dự hội nghị còn có đại diện các Cục, Vụ chức năng Bộ GD-ĐT, các nhà trường, đơn vị cục chức năng Bộ Quốc phòng, Bộ KH-ĐT.


Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển phát biểu tại hội nghị. Ảnh : gdtd.vn

Hiện Bộ Quốc phòng đang trực tiếp quản lý, điều hành trên 150 trường, cơ sở giáo dục trực thuộc. Năm 2012, công tác GD-ĐT trong quân đội tiếp tục triển khai nghiêm túc Nghị quyết của Đảng, mệnh lệnh Bộ Quốc phòng; đã xây dựng và thông qua thường vụ Quân ủy TƯ "Chiến lược phát triển GD-ĐT trong quân đội giai đoạn 2011-2020". Các học viện, trường sĩ quan, CĐ trong quân đội đã tập trung vào nhiệm vụ đào tạo sĩ quan cho quân đội trình độ ĐH. Chuẩn hóa các mã ngành, thống nhất theo quy định của Bộ GD-ĐT; dự kiến mở các mã ngành đào tạo mới, định hướng GD-ĐT giai đoạn 2015-2020.

Tích cực đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học tích cực, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, phần mềm và các thiết bị mô phỏng. Tăng cường công tác kiểm tra GD-ĐT của các học viện, nhà trường. Chú trọng đến đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên, giáo viên, tập trung đàu tư, mua sắm trang thiết bị phục vụ công tác dạy-học.

Các kỳ thi được hai Bộ phối hợp tổ chức nghiêm túc, đúng quy chế. Đã tuyển sinh (TS) đào tạo cao học 809 HV, xét tuyển 202 NCS, TS đào tạo ĐH 3.559 thí sinh/3.705 chỉ tiêu, đạt 96%. Tổ chức chặt chẽ, nghiêm túc kì thi tốt nghiệp THPT năm 2012, số lượng học sinh tốt nghiệp đạt 99,75%. Ở hệ trung cấp và CĐ, có 6.226 HV, kết quả tốt nghiệp ra trường đạt 97-99,8% với chất lượng tương đối tốt, tỉ lệ khá giỏi đạt 70-80%.

Bộ GD-ĐT đã phê duyệt thành lập trường CĐ Công nghệ Kỹ thuật ô tô; phối kết hợp với Bộ Quốc phòng hoàn thiện các thủ tục trình thủ tướng Chính phủ thành lập hai trường Đại học khác.

Đã hướng dẫn các trường xây dựng Chương trình khung GD TCCN, hướng dẫn các trường ĐH Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Huệ, Chính trị, Trần Đại Nghĩa hoàn thành Đề án đào tạo giáo viên quốc phòng an ninh.


 Các đại biểu dự hội nghị. Ảnh: gdtd.vn

Đã có 50 nhà giáo các nhà trường trong quân đội được Bộ trưởng Bộ GD-ĐT bổ nhiệm chức danh Giáo sư. 10 nhà giáo được phong tặng Nhà giáo ưu tú.

Các ý kiến tại hội nghị tập trung phản và đề nghị hai Bộ phối kết hợp giải quyết các khó khăn vướng mắc trong công tác đào tạo tại các trường trực thuộc Bộ Quốc phòng.

Hai Bộ phối kết hợp với Bộ Kế hoạch- Đầu tư, Tài chính tháo gỡ các vướng mắc trong cấp kinh phí cho các công tác GD-ĐT tại các trường Quân đội theo quy định. Thúc đẩy nhanh tiến độ thành lập các trường ĐH Quân đội đang được triển khai, thành lập.

Đề nghị hai Bộ quan tâm phát triển Hệ thống Giáo dục mầm non phục vụ trong quân đội. Hiện có 133 trường, nhóm trẻ trong hệ thống quân đội đang trực thuộc và không trực thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Đã có hơn 20 ngàn trẻ được trông giữ tại đây; đồng thời đã và đang có một bộ phận không nhỏ trẻ là con em của người dân trong địa bàn các đơn vị đứng chân được trông giữ, chăm sóc trong hệ thống này. Hiện chương trình dạy học, đội ngũ giáo viên, đồ dùng đồ chơi của các cơ sở GDMN này đều được Bộ Quốc phòng chú trọng xây dựng theo chuẩn Điều lệ trường MN và các quy định khác của Bộ GD-ĐT, đã có nhiều trường đã đạt chuẩn quốc gia cấp độ 1, 2… Đề nghị Bộ GD-ĐT quan tâm đến công tác công nhận trường chuẩn, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, sinh hoạt chuyên môn của đội ngũ nhà giáo.


 Quang cảnh hội nghị. Ảnh: gdtd.vn

Phát biểu tại hội nghị, Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển khẳng định: Trong năm 2013 và các năm tiếp theo Bộ GD-ĐT sẽ tiếp tục quan tâm, ủng hộ Bộ Quốc phòng triển khai thực hiện "Chiến lược phát triển GD-ĐT trong quân đội giai đoạn 2011-2020" sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; hoàn thiện quy hoạch hệ thống nhà trường và các cơ sở đào tạo sau ĐH trong quân đội; ủng hộ các trường CĐ có đủ điều kiện nâng cấp lên Đại học, mở ngành đào tạo của các trường CĐ-ĐH; đồng thời đề nghị Bộ Quốc phòng, các trường chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho công tác này; nhất trí với việc mở mã ngành đào tạo, tuyển sinh chương trình, trình độ TC-CĐ-ĐH theo hướng giảm thời gian giáo dục đại cương tăng thời gian giảng dạy chuyên ngành và thực hành; quan tâm đến công tác nghiên cứu khoa học, công tác HSSV hệ dân sự trong các trường ĐH-CĐ…

Bộ GD-ĐT sẽ chỉ đạo các cơ quan trực thuộc phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của Bộ Quốc phòng, nhất là với Cục nhà trường trong chỉ đạo thực hiện công tác GD-ĐT trong các nhà trường quân đội; đảm bảo sự hoạt động đồng bộ của các nhà trường quân đội và các nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc.

Kết luận hội nghị Trung tướng Phạm Xuân Hùng: Trong năm 2013 và những năm tiếp theo, Công tác GD-ĐT trong quân đội tiếp tục được triển khai thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đảng, mệnh lệnh Bộ Quốc phòng về công tác này; tiếp tục chỉ đạo đổi mới hoạt động của hệ thống nhà trường và các cơ sở đào tạo sau ĐH trong quân đội theo hướng "đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam" theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI; xây dựng "chiến lược phát triển GD-ĐT trong quân đội giai đoạn 2012-2020" hoàn thiện quy hoạch hệ thống nhà trường quân đội, các cơ sở đào tạo sau ĐH trong quân đội; xây dựng các trường, trường ĐH trọng điểm của quân đội… để đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực mang tính đặc thù của Quân đội nhân dân Việt Nam trong bối cảnh mới hiện nay.

Bá Hải

Nguồn: http://gdtd.vn/channel/2741/201212/Tiep-tuc-doi-moi-cong-tac-GDDT-trong-quan-doi-1965742/

Dự thảo: Bổ sung đối tượng được miễn học phí

Posted: 20 Dec 2012 02:34 PM PST

(GDTĐ)-Bộ GDĐT vừa công bố rộng rãi dự thảo nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 49/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010 – 2011đến năm học 2014 – 2015

Ảnh: gdtd.vn
Ảnh: gdtd.vn

Đáng chú ý, dự thảo bổ sung thêm đối tượng miễn học phí, đó là: Sinh viên học chuyên ngành Mác Lê – nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh theo Quyết định số 494/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 của Thủ tướng Chính phủ và HSSV học chuyên ngành giải phẫu bệnh, giám định pháp y, pháp y tâm thần.

Các đối tượng được giảm 70% học phí gồm: học sinh, sinh viên các chuyên ngành nhã nhạc cung đình, chèo, tuồng, cải lương, múa, xiếc; một số ngành học nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm đối với dạy nghề.

Sửa đổi, bổ sung đối tượng được giảm 50% học phí, trong đó có HS tốt nghiệp trung học cơ sở đi học trung cấp nghề và trung cấp chuyên nghiệp; Trẻ em học mẫu giáo và học sinh phổ thông có cha mẹ thuộc hộ cận nghèo theo quy định của Nhà nước.

Bãi bỏ quy định: Trẻ em học mẫu giáo và HS phổ thông có cha mẹ thường trú tại các xã biên giới, vùng cao, hải đảo và các xã có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn được hỗ trợ chi phí học tập.

Bãi bỏ quy định: Trẻ em học mẫu giáo và HSSV có cha mẹ thường trú tại các xã biên giới, vùng cao, hải đảo và các xã có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn được miễn học phí.

Cũng theo dự thảo này, Nhà nước thực hiện cấp bù học phí cho các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học công lập có đối tượng thuộc diện được miễn, giảm học phí theo số lượng người học và mức thu học phí tương ứng với các nhóm ngành nghề được quy định tại Nghị định 49. Nhà nước cấp trực tiếp tiền hỗ trợ miễn giảm học phí cho các đối tượng thuộc diện được miễn, giảm học phí theo học tại các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học ngoài công lập (theo mức học phí của các trường công lập trong vùng đối với giáo dục mầm non, phổ thông; theo mức học phí quy định tại Nghị định số 49 tương ứng với các nhóm ngành nghề đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học).

Dự thảo cũng quy định học phí theo phương thức giáo dục thường xuyên không vượt quá 150% mức học phí chính quy cùng cấp học và cùng nhóm ngành nghề đào tạo. Học phí đối với các chương trình đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn khác theo thỏa thuận giữa cơ sở giáo dục và người học.

Hiếu Nguyễn

Nguồn: http://gdtd.vn/channel/3222/201212/Du-thao-Bo-sung-doi-tuong-duoc-mien-hoc-phi-1965743/

Dạy học

Posted: 20 Dec 2012 02:33 PM PST

Việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài là hoàn toàn cần thiết trong bối cảnh hiện nay để Việt Nam có thể hòa nhập với quốc tế.

Cần thiết
Chưa cần nói đâu xa, ngay tại các kỳ thi Olympic các môn, đội tuyển Việt Nam của chúng ta hoàn toàn yếu thế về tiếng Anh và đều phải phụ thuộc vào việc có người dịch. Điều này khiến chúng ta "mất điểm" trước bạn bè quốc tế và gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp. Chính vì vậy, việc đưa tiếng nước ngoài vào giảng dạy các môn khoa học tự  nhiên, công nghệ và tin học theo chương trình giáo dục phổ thông của Việt Nam hoặc chương trình của nước ngoài do Bộ GD-ĐT quy định hoặc phê duyệt; sách giáo khoa và tài liệu dạy học có thể bằng tiếng nước ngoài, tiếng Việt hoặc song ngữ, được cơ quan có thẩm quyền thẩm định và cho phép sử dụng là hoàn toàn cần thiết.


Ảnh minh họa (Nguồn Internet)

Hiện nay, trên cả nước, mới chỉ có TP.HCM là thực hiện thí điểm chương trình này. Được biết, toàn TP hiện có 1.600 HS đang theo học. Còn tại Hà Nội, chương trình này chưa được áp dụng ở trường nào. Các trường tiểu học ngoài công lập dù có treo biển dạy tiếng Anh nhưng thực chất chỉ là tăng cường tiếng Anh chứ không dạy các môn toán, khoa học tự nhiên bằng tiếng Anh.

Cách đây nhiều năm, Bộ GD-ĐT từng chủ trương triển khai dạy một số môn tự nhiên bằng tiếng Anh, phạm vi áp dụng trong trường chuyên. Cũng nhờ có chủ trương này mà tại Trường THPT chuyên Khoa học Tự  nhiên – ĐH Khoa học Tự  nhiên – ĐH Quốc gia Hà Nội phong trào học tiếng Anh ở cả thầy và trò đều lên rất cao. Trước khi nhập học chính thức, trường còn dành hẳn một tháng 8 chỉ để dạy học bằng tiếng Anh. Ngày thứ 6 hàng tuần được chọn là ngày chỉ nói tiếng Anh. Còn tại các tỉnh khác, tất cả các trường đều "thuần tiếng Việt".

"Đào" đâu ra người dạy?

Có một thực tế hiện nay, chưa nói đến việc dạy các môn bằng tiếng nước ngoài, chỉ cần có đủ số lượng giáo viên (GV) đạt chuẩn khung B2 theo đề án ngoại ngữ cũng làm các sở GD-ĐT bở hơi tai. Con số GV đạt chuẩn tại một số tỉnh chỉ tính đến hàng chục, chưa thể nói đến hàng trăm. Chính vì vậy, tất cả các địa phương đang tiến hành tập huấn, bồi dưỡng, tổ chức thi nâng chuẩn cho GV.

Ngày 15-12, tại Hưng Yên có 70 GV thi nâng chuẩn từ B1 lên B2, còn tại Vĩnh Phúc có 700  GV cũng thi nâng chuẩn. Thống kê của chính Bộ GD-ĐT  cho thấy, đến giữa năm 2012  này, nếu áp theo khung tham chiếu châu Âu,  cả nước mới chỉ có 1.062/11.784 GV tiếng Anh tiểu học đạt trình độ B2. Nhiều sở đã lên kế hoạch tuyển GV Philippines sang dạy như TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai.

Trong khi đó, ở các trường sư phạm của Việt Nam mới chỉ có khoa sư phạm tiếng Anh, còn các khoa sư phạm của ngành khoa học tự nhiên, CNTT đều giảng dạy bằng tiếng Việt, chưa có khoa nào giảng dạy bằng tiếng nước ngoài kể cả ĐH Sư phạm Hà Nội (là trường ĐH đầu ngành đào tạo GV của Việt Nam). Không có đào tạo thì lấy đâu ra GV để dạy trong tương lai?

Theo bà Lê Thị Chính – nguyên Hiệu trưởng Trường THPT chuyên Ngoại ngữ, ĐH Ngoại ngữ, ĐH Quốc gia Hà Nội – đội ngũ thầy cô giáo có thể "dạy bằng tiếng Anh" rất ít ỏi. GV ngoại ngữ không thể  dạy toán, lý, hóa. Ngược lại, nhiều  thầy cô rất giỏi toán, lý, hóa nhưng rất ít người có thể dạy bằng tiếng Anh. Để có được đội ngũ GV dạy các môn tự nhiên, CNTT bằng tiếng Anh thì trước tiên, tại các trường sư phạm cũng phải có đội ngũ này. Nhưng từ xưa đến nay, chúng ta chưa hề có. Đây là một khó khăn, thách thức đối với ngành khi dự thảo đi vào thực tế.

PGS.TS Nguyễn Vũ Lương, Hiệu trưởng Trường THPT chuyên Khoa học Tự nhiên, cho biết: Trường mới chỉ "đưa tiếng Anh" vào dạy tại hai lớp chất lượng cao. Mỗi tuần, HS của hai lớp này được học 2 tiết lý, hóa, sinh, toán bằng tiếng Anh. "Qua thực tế, dạy và học bằng tiếng Anh không dễ dàng. Đừng nghĩ và nói là cho GV đang giảng dạy toán, tin đi bồi dưỡng thêm tiếng Anh là về có thể dạy toán, tin bằng tiếng Anh. Đó là một ảo vọng", PGS Lương khẳng định.

Và cũng chính vì quen với cách làm "thiếu chỗ nào bù chỗ ấy" này mà dẫn tới hiệu quả không cao. Đó là chưa kể hiện nay, các kỳ thi của chúng ta đều bằng tiếng Việt và mục tiêu của HS vẫn là vào ĐH. Nếu cách thi và kiểm tra chưa đổi mới thì việc dạy – học các môn bằng 100% tiếng Anh với đủ kiểu giáo trình như hiện nay là bất lợi cho người học.

 

Nguồn: http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Day-hoc-tieng-nuoc-ngoai-trong-nha-truong-Giac-mo-con-xa/261354.gd

Hướng dẫn thực hiện phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo

Posted: 20 Dec 2012 02:32 PM PST

Bộ GD-ĐT cho biết, tại điểm 1 Mục IV Thông tư liên tịch số 01/2006TTLT-BGD-ĐT-BNV-BTC, quy định: "Thủ trưởng cơ sở giáo dục căn cứ đối tượng, mức hưởng phụ cấp ưu đãi hướng dẫn tại Thông tư này lập dự toán chi trả phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo của đơn vị mình (theo mẫu đính kèm) gửi cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp trước ngày 1/6 hàng năm để xét duyệt theo phân cấp hiện hành"

Do đó căn cứ quy định tại thông tư liên tịch số 07/2009/TTLT-BGD ĐT-BNV hướng dẫn thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế đối với đơn vị sự nghiệp công lập giáo dục và đào tạo phù hợp với thực tiễn nên người đứng đầu cơ sở giáo dục công lập trực thuộc Bộ căn cứ quy định của quyết định số 244/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và thông tư liên tịch số 09/2006/TTLT-BGD ĐT-BNV-BTC, tổ chức xét duyệt, quyết định mức hưởng phụ cấp ưu đãi được hưởng đối với nhà giáo đang giảng dạy, giáo dục tại đơn vị và chịu trách nhiệm về kết quả xét duyệt. Trên cơ sở đó, thực hiện việc chi trả, giải quyết truy lĩnh tiền phụ cấp ưu đãi theo quy định; đồng thời gửi báo cáo về Bộ GD-ĐT.

Nguồn: http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/huong-dan-thuc-hien-phu-cap-uu-dai-doi-voi-nha-giao-675939.htm

Nỗi bất lực của một cô giáo

Posted: 20 Dec 2012 02:31 PM PST

- Nhớ lại những buổi đầu tiên lên lớp, dù đã được nhiều anh chị đồng nghiệp cảnh báo trước học sinh trường này rất cá biệt nhưng tôi vẫn không ngờ trước thực tế lại như vậy.

 

Lần đầu tiên đi dạy, tôi lên trường rất sớm. Trống tiết nên tôi ngồi ở văn phòng nghĩ ngợi vẩn vơ. Bỗng thấy một bạn dạy cũng khóc lóc đi lên văn phòng. Hỏi, bạn tâm sự vì học sinh hư quá. Cô giáo mới nên bị trò "bắt nạt". Cô giáo vào lớp, học trò khòng vào. Cô vào lớp trò cũng chạy loanh quanh. Bạn ấy không làm sao để các em trật tự. Quát mắng không được mới bức xúc, tủi thân mà khó. Lúc này đành phải nhờ tới giáo viên chủ nhiệm can thiệp lớp mới yên.

Nhìn cảnh ấy lòng tôi ít nhiều cũng sợ. Nhưng lòng luôn bảo dạ, học trò mới cấp II, mình không bao giờ phải khóc như vậy. Thế mà…hầu như hôm nào dạy lớp cá biệt xong, bước ra khỏi lớp tôi đều phải khóc. Khóc vì bất lực, khóc vì thiếu kinh nghiệm "trị" học sinh hư.

Ảnh minh họa. Nguồn: HHTOnline

Bước vào lớp đó với tôi như đặt chân vào cửa địa ngục. Nếu hôm nào có tiết là tối về tôi lại mất ngủ. Vào lớp con gái thì vênh váo, con trai thì ngổ ngáo. Cô giáo giảng bài học sinh ở dưới chỉ lo nói chuyện. Mà chúng cứ hét thật to. Giáo viên trên bục nhắc nhở được một lúc rồi đâu lại vào đó.

Khá nhiều học trò ở đây nói năng vô văn hóa. Nhiều lần đứng trên bục giảng tôi đành phải cho qua những câu nói ấy. Cô dạy trên bảng nhưng học sinh ở dưới chỉ nhận xét, bình phẩm cô giáo linh tinh. Nào thì "cô giáo nhìn nóng thế", "trán cô A dài hơn trán cô B",….

Xuống nhắc nhở, chúng chỉ cười hênh hếch. Mắng một em để làm gương cho cả lớp thì mấy chục cái miệng ùa theo nói láo cô giáo. Là giáo viên trẻ, biết mình còn thiếu kinh nghiệm và phải cố gắng nhiều nhưng lần nào ra khỏi lớp tôi đều cảm thấy bị xúc phạm, tủi hổ. Tìm đến ban giám hiệu là cách làm cuối cùng mà tôi nghĩ ra.

Ngày xưa câu "nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò" đọc lên khiến tôi vui vui nhưng giờ là giáo viên chỉ thấy sợ trước những trò nghịch của trò. Nhiều lần vì không muốn vào lớp, học sinh đổ mắm tôm ra lớp, mùi nồng nặc. Chỉ chờ có vậy chúng chạy hết ra ngoài. Số ít lắm có lẽ thương cô nên đi xách nước, mua nước tẩy vể để kỳ cọ.

"Thưa thầy cho em về trước để đi khám răng" – Một nữ sinh lớp cá biệt xin phép về ở tiết 5. Ở trường có quy định không cho học sinh ra ngoài trong giờ trừ lí do đặc biệt. Thầy hỏi đi khám với ai. Trò thưa mẹ em đợi ngoài cổng. Thầy lấy điện thoại ra và đề nghị trò đọc số mẹ để hỏi. Trò liền bốp chát: "Đ. cho ra thì thôi. Lắm chuyện!" Chuyện này đồng nghiệp cùng trường kể với tôi. Tôi biết anh ấy đã nói giảm nói tránh đi nhiều, bỏ đi nhiều chỗ rồi. Thú thực "đ." đã là lịch sự với học trò ở trường này.

Chúng tôi vẫn đùa nhau rằng "trò không chửi vào mặt mình ngoài đường là may rồi".

Học sinh đã thế nhưng nhiều phụ huynh cũng thật "trẻ con". Nếu có việc gì cần đến gặp các em, đang giờ dạy họ cứ ở ngoài nói vọng vào. Họ còn "dạy bảo" ngay trên trường lớp. Trong giờ dạy của tôi, phụ huynh cứ đứng ở chỗ con mình ngồi rồi mắng xơi xơi. Nhắc chị ra ngoài chị không ra. Có phụ huynh, tệ hơn còn đánh con trước mặt giáo viên. Phụ huynh ở đây phần nhiều là tiểu thương, công việc buôn bán bận quanh năm. Giáo viên như chúng tôi có khi mời đến vài lần họ chỉ ậm ừ hoặc nghe loáng thoáng chuyện rồi về trách phạt con.

Một số giáo viên vì ở cùng địa phương các em học nên trò ít nhiều "còn e sợ thầy". Nhưng đa phần các em đều rất hư. Có lần chúng rủ nhau mua sơn viết tên, chửi thầy hiệu trưởng ở giữa sân trường.

Đuổi các em? Hay phạt thật nặng? Như vậy các em có thay đổi? Cuộc đời có tươi sáng hơn? Trường chúng tôi gần như không làm thế. Thầy hiệu trưởng nhìn tôi trìu mến: "Cố lên em! Trò không phải hư mà do mình chưa dạy đúng cách thôi".

Nhưng muốn thay đổi mà phụ huynh như vậy liệu giáo viên chúng tôi làm được gì? Tôi cố để bình tâm, không phạm vào những điều giáo viên không được làm mỗi lần đứng lớp. Tôi gắng bấu víu ở nơi này một phần vì ra trường suốt mấy năm nhưng tỉnh không có chính sách tuyển dụng SV Trường ĐH Hùng Vương. Từ đây đi về nhà chỉ hơn 4km. Tháng tháng vẫn phải ngửa tay xin tiền nhà để đi đám cưới, đi lễ….

…Mới đó đã là năm thứ 2 tôi gắn bó với trường, lớp ở đây. Lũ trẻ thì vẫn nghịch. Và tôi cứ phải mò mầm, bước đi mong sao những năm cuối cùng có thể phần nào thay đổi chúng. Nước mắt tôi đã bớt rơi nhưng lòng vẫn ngổn ngang, đôi khi bất lực trước học trò của mình.

  • Nguyễn Thị Minh (Giáo viên THCS tỉnh Vĩnh Phúc)

Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/101385/noi-bat-luc-cua-mot-co-giao.html

Comments