Nghề Giáo - Giáo viên - Giáo dục

Nghề Giáo - Giáo viên - Giáo dục


Việt Nam rất chú trọng phát triển toán học

Posted: 12 Dec 2012 03:32 AM PST

(GDTĐ) – Tại buổi tiếp tiếp GS. Neal Koblitz, một trong những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực nghiên cứu toán học của Hoa Kỳ, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân khẳng định: Việt Nam rất chú trọng phát triển các môn khoa học cơ bản, đặc biệt là toán học.


Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân tiếp GS. Neal Koblitz

Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân hoan nghênh chuyến thăm, làm việc tại Việt Nam của GS. Neal Koblitz, mong giáo sư sẽ có những đóng góp thiết thực thúc đẩy hợp tác giữa các trường Đại học của Hoa Kỳ với các trường Đại học của Việt Nam, đặc biệt là với Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán vừa được Thủ tướng Chính phủ thành lập và đang hoạt động hiệu quả.

Theo Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, Việt Nam rất chú trọng phát triển các môn khoa học cơ bản đặc biệt là toán học. Đó là nền tảng cơ bản để phát triển bền vững trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Phó Thủ tướng cho biết, hiện nay Việt Nam có rất ít tiến sỹ về Toán tham gia giảng dạy. Khắc phục thực trạng đó, Chính phủ đã thành lập Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán để quy tụ, thu hút nhiều hơn các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, học sinh sinh viên tham gia làm toán chuyên nghiệp. Mục tiêu trong 10 năm tới, Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán sẽ làm thay đổi căn bản thực trạng này, đưa toán học góp phần nghiên cứu quan trọng trong nhiều lĩnh vực KT-XH của Việt Nam.

Phó Thủ tướng đã thông báo với GS. Neal Koblitz những chủ trương lớn của GD Việt Nam trong đó có quan điểm phát triển môn toán học. Ngành giáo dục Việt Nam sẽ thay đổi phương pháp giảng dạy bằng cách gắn những ứng dụng toán học với thực tiễn cuộc sống hàng ngày. Phó Thủ tướng khẳng định, luôn hoan nghênh, chào đón các nhà khoa học đặc biệt là toán học tới thăm, trao đổi kinh nghiệm, giảng dạy và nghiên cứu tại Việt Nam.

GS. Neal Koblitz đánh giá cao chủ trương nâng cao chất lượng GD-ĐT, đặc biệt là hướng tới nền giáo dục chất lượng cao. Quyết tâm thành lập Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán đã tạo tiền đề trong việc sử dụng những ứng dụng của toán học để phân tích số liệu và mô hình hóa các vấn đề xã hội và khoa học phục vụ phát triển KT-XH của đất nước là bước đi hết sức đúng đắn mà Chính phủ Việt Nam đã lựa chọn.

GS. Neal Koblitz mong muốn Chính phủ Việt Nam cho phép xây dựng nhà lưu niệm các GS. hàng đầu thế giới đã tới Việt Nam công tác, giảng dạy tại ĐH Thái Nguyên trong thời kỳ chiến tranh. Đây là việc làm nhằm giáo dục những trí thức trẻ Việt Nam hiểu biết hơn về sự hợp tác rất đặc biệt này của giới khoa học. GS. Neal Koblitz khẳng định sẽ chia sẻ kinh nghiệm cũng như giới thiệu các nhà toán học có uy tín cùng đóng góp trí tuệ để Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán đạt được yêu cầu như mong muốn của Chính phủ Việt Nam.

Lan Anh

Nguồn: http://gdtd.vn/channel/2741/201212/Viet-Nam-rat-chu-trong-phat-trien-toan-hoc-1965551/

Sau 3 năm nữa, sẽ giảm môn học ở phổ thông

Posted: 12 Dec 2012 03:32 AM PST

- Dự kiến, sau năm 2015, hệ thống chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) sẽ giảm số
môn học bắt buộc, tăng số môn học tự chọn. Ở từng cấp học giảm số môn, tăng cường các
hoạt động GD

 

GS.TS Đinh Quang Báo cho biết, cấu trúc chương trình phổ thông vẫn sẽ là 12 năm
nhưng chương trình có trong số cho môn cốt lõi.


Đề án Đổi mới chương trình, SGK phổ thông sau năm 2015 được các giảng viên, chuyên
gia và nhà quản lí cao cấp VN và Đan Mạch đưa ra "mổ xẻ" trong 3 ngày (10-12/12).

Cụ thể, cấp Tiểu học hiện hành có 11 môn học và 3 hoạt động GD, sau năm 2015 có 5
môn học và 4 hoạt động GD;

Cấp THCS hiện hành có 13 môn học và 4 hoạt động GD, sau năm 2015 có 10 môn học và
3 hoạt động GD;

Cấp THPT: Lớp 10 hiện có 13 môn học và 5 hoạt động GD, sau năm 2015 có 11 môn học
với 2 hoặc 3 chủ đề tự chọn và 3 hoạt động GD; lớp 11 và lớp 12 hiện hành có 13 môn
học với 5 hoạt động GD, sau năm 2015 còn 4 môn học (Ngữ văn, Toán, Giáo dục công dân,
Ngoại ngữ) và 3 môn học tự chọn bắt buộc, 3 hoạt động GD.

Điểm mới nữa được ban soạn thảo đưa ra là phương án thay đổi toàn diện cách kiểm
tra đánh giá. Theo đó, thang đo đánh giá năng lực không quy về một nội dung đã học mà
được quy chuẩn theo mức độ phát triển năng lực người học. Việc đánh giá năng lực tập
trung vào sự tiến bộ của người học hơn là mục tiêu đánh giá để xếp hạng giữa các
người học với nhau.

Sau năm 2015, dự kiến kỳ thi tuyển sinh đầu vào THCS, THPT sẽ giao quyền tự chủ hoàn
toàn cho các trường. Bộ GD-ĐT sẽ giao việc tổ chức và xử lý kết quả thi tốt nghiệp
THPT cho các sở GD-ĐT, bộ chỉ giữ nhiệm vụ quản lý vĩ mô là ban hành quy chế thi,
phôi bằng và xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập. Kết quả xếp loại bằng tốt nghiệp
được xét trên cơ sở kết quả đánh giá cả quá trình học và kết quả thi. Để có cơ sở so
sánh, đối chiếu sự tăng trưởng chất lượng theo thời gian, Bộ GD-ĐT cũng sẽ tổ chức
đánh giá định kỳ quốc gia ở lớp cuối mỗi cấp học với các lớp 5, 9, 12.

GS Báo khẳng định, việc giảm một số môn không phải là giảm tải, cắt giảm chương
trình đơn thuần mà giảm là để tích hợp tốt hơn. Học sinh thu nạp được lượng tri thức
rộng hơn, sâu hơn, nhiều hơn.

“Về nguyên tắc học gì thi nấy. Chọn môn nào phải tính toán thể hiện được kiến
thức tích hợp. Không thể làm/dạy theo kiểu đơn tuyến như hiện nay tức mà phải để học
sinh vận dụng tất cả những kiến thức ấy”
- GS nói.

Đề án đổi mới lần này hướng vào dạy học sinh năng lực. Để triển khai vấn đề chất
lượng giáo viên là quan trọng nhất. Hiện đội ngũ của chúng ta còn lúng túng khi dạy
theo năng lực. Nhưng có thể họ cũng chỉ là nạn nhân của cách đánh giá hiện nay. Đánh
giá tập trung vào khối lượng kiến thức, chú trọng thành tích thì cách dạy/học khác.

  • Văn Chung

Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/100750/sau-3-nam-nua--se-giam-mon-hoc-o-pho-thong.html

Bữa trưa chống bỏ học

Posted: 11 Dec 2012 11:52 PM PST

- Trước tình trạng trường học xa nhà, học sinh miền núi chán học, bỏ học, năm học
2012-2013, tỉnh Khánh Hòa đã áp dụng nhiều biện pháp chống bỏ học. Trong đó có việc
nấu cơm trưa, ăn cơm trưa tại trường tiểu học.

Bà Hoàng Thị Lý – phó GĐ Sở GD-ĐT tỉnh Khánh Hòa, cho biết, chương trình cho học
sinh miền núi ăn trưa, bán trú tại trường đối với trẻ học 2 buổi/ngày được thực hiện
từ đầu tháng 11. Những năm trước mỗi học sinh tiểu học đến lớp sẽ được nhận học bổng
90.000/tháng. Năm nay, số tiền này được nâng lên thành 200.000 đồng/tháng nhưng
chuyển thành buổi ăn trưa.

Đến nay, hầu hết các trường ở 2 huyện miền núi Khánh Sơn, Khánh Vĩnh đã thực hiện,
trong đó có những trường đang thí điểm đối với học sinh lớp 1. Những trường nào do
điều kiện cơ sở vật chật chưa đủ để tổ chức học 2 buổi thì học sinh được nhận tiền
mặt 120.000 đồng/tháng.

"Ngoài mục đích chống bỏ học, chương trình còn nhằm chống suy dinh dưỡng cho trẻ
miền núi và giúp các em thêm kỹ năng sống trong môi trường tập thể" – bà Lý nói.

Thầy Nguyễn Văn Sỹ – Hiệu trưởng Trường tiểu học Khánh Nam (huyện Khánh Vĩnh) cho
biết, trường hiện có 167 học sinh, từ khi được ăn bữa trưa, ngủ tại trường, các em
rất hào hứng đi học để được ăn cơm có thịt, cá. Nhờ có bữa trưa tại trường, các em
không còn phải vượt đường xa về nhà mỗi trưa nắng rồi chiều quay lại trường nên sĩ số
các lớp luôn ổn định.


Học sinh miền núi Khánh Hòa hào hứng với bữa trưa tại trường

Tuy nhiên, do chưa được đầu tư xây dựng nhà ăn, bếp ăn đúng chuẩn nên việc tổ chức
nấu ăn cho học sinh còn nhếch nhác. Tại trường Tiểu học Khánh Nam, phải dùng bếp chật
chội của nhà công vụ giáo viên nấu ăn cho hàng trăm học sinh. Bể nước, sàn nhà bếp
lầy lội… Nhiều trường còn phải dùng bếp củi để nấu cơm, dùng phòng học hoặc che tạm
khoảng sân chơi làm nhà ăn. Chưa được đầu tư đồng bộ nên nhiều trường thiếu chiếu,
gối thậm chí thiếu nồi, bát ăn cơm cho học sinh…

Ông Trần Văn Trung – phó Phòng giáo dục huyện Khánh Vĩnh cho biết: Huyện đã trích
ngân sách hợp đồng thời vụ với 55 cấp dưỡng nấu ăn cho học sinh ở toàn bộ 13 trường
tiểu học nhưng chưa trường nào có bếp ăn, nhà ăn đạt chuẩn…

Bà Lý cho biết, tỉnh Khánh Hòa đang
thực hiện đề án kiên cố hóa trường học bán trú, hiện đã xong giai đoạn 1. Ở giai đoạn
II sẽ thực hiện trong thời gian tới, bếp ăn một chiều, nhà ăn hợp chuẩn sẽ được chú
trọng đầu tư.

  • Khuê Vũ

Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/100647/bua-trua-chong-bo-hoc.html

Giúp trẻ vượt qua áp lực thi cử

Posted: 11 Dec 2012 11:52 PM PST

Tiến sĩ Antony Earnshaw, người sáng lập hệ thống dạy Tiếng Anh cho trẻ em I Can Read, nhà tâm lý giáo dục học trẻ em nổi tiếng của Úc, chia sẻ  về tâm lý chung của trẻ trước mỗi kỳ thi và gợi ý cách cha mẹ có thể giúp con em mình vượt qua áp lực thi cử.

Tiến sĩ có thể giải thích tại sao sự lo lắng cũng như áp lực thi cử lại xuất hiện ở trẻ em, ngay cả những trẻ rất nhỏ?

Trẻ em về bản chất không có sự lo lắng. Các em học cách lo lắng. Khi bản thân họ lo lắng và truyền sự lo lắng cho đứa trẻ bằng cách vô tình làm cho những đứa trẻ hiểu rằng, nếu chúng trượt kỳ thi thì giá trị của chúng sẽ bị giảm sút so với khi chúng có thể vượt qua các kỳ thi. Từ đó, rất nhiều đứa trẻ học cách gắn giá trị bản thân với kết quả thi cử của chúng. Bởi vậy, trẻ nghĩ rằng nếu trẻ thi trượt thì bố mẹ sẽ ít yêu mình hơn. Chính điều này làm trẻ trở nên rất căng thẳng trước mỗi kỳ thi.

Giúp trẻ vượt qua áp lực thi cử

Ngoài ra, bản thân mỗi kì thi cũng là một áp lực.Với người lớn, kết quả làm việc thường gắn với giá trị của người đó, nhưng chúng ta được lựa chọn làm việc mà chúng ta yêu thích. Nhưng trẻ em không có sự lựa chọn. Chúng phải chấp nhận thách thức đó (thi cử) ngay cả khi chúng không sẵn sàng nhất bởi chúng bị đặt vào guồng quay của trường lớp. Đó là lí do khiến trẻ cảm thấy bất lực và cảm giác bất lực càng làm tăng sự lo lắng.

Nghĩa là, bản thân mỗi kì thi là một áp lực, nhưng chính áp lực từ cha mẹ lên con cái mới khiến hình thành sự lo lắng cho trẻ. Nhưng tại sao người lớn vẫn tiếp tục tạo áp lực khiến trẻ em lo lắng? Phải chăng điều này có tác dụng tốt đối với các em?

Giúp trẻ vượt qua áp lực thi cử

Nhưng theo tôi tạo áp lực lên trẻ em cũng là một cách tốt để chúng phấn đấu. Ví dụ như tại các trường chuyên, áp lực học hành thi cử là rất lớn nhưng hầu hết các học sinh đều muốn vào đó.

Mức áp lực đặt lên một đứa trẻ phải phản ánh đúng được tầm quan trọng của kỳ thi cũng như mức phát triển tâm lý của thẻ. Những hệ thống như trường chuyên được thiết kế để nhận diện nhứng đứa trẻ lớn hơn và có khả năng chịu đựng được căng thẳng và áp lực ở cường độ cao. Những hệ thống như thế có khả năng nhận diện những đứa trẻ xuất chúng từ rất sớm nhưng lại không cho phép những đứa trẻ phát triển muộn đạt được những thành công sau này.

Ví dụ như sẽ không khôn ngoan khi đặt một đứa trẻ 7 tuổi trong hoàn cảnh áp lực cao như ở các trường chuyên; Cha mẹ đặt con vào những hệ thống như thế hiểu rõ rằng chỉ cần một thất bại ban đầu thì nguy cơ tụt lại và bị cô lập là rất cao. Vì vậy, thông điệp dành cho trẻ là rất rõ ràng: Không được thất bại trong bất cứ trường hợp nào bởi vì bạn không có cơ hội thứ 2.

Sự phát triển của trẻ em không tuân theo quy luật này. Trẻ học đi sau rất nhiều lần ngã đau nhưng hầu hết tất cả đều học cách bước đi. Trong thực tế, việc vấp ngã là quá trình không thể thiếu để thành công. Cha mẹ cần phải dũng cảm nói với con rằng thành công hay thất bại là không quan trọng, miễn là con đã cố gắng hết sức mình.

Vậy tiến sĩ có những lời khuyên nào dành cho các bậc cha mẹ để giúp con vượt qua áp lực thi cử?

Vậy tiến sĩ có những lời khuyên nào dành cho các bậc cha mẹ để giúp con vượt qua áp lực thi cử?

1. Khi kỳ thi cử tới gần, dành thời gian chuẩn bị cùng với trẻ. Nói chuyện với trẻ và tìm hiểu xem ý nghĩa của kỳ thi đối với trẻ là như thế nào. Và quan trọng hơn là làm cho trẻ hiểu kết quả không quan trong, quan trọng nhất là việc trẻ cố gắng hết sức

2. Đừng nhấn mạnh việc trượt hay đỗ, thắng hay thua

3. Bảo đảm những hoạt động của trẻ vẫn diễn ra như thường xuyên và trẻ không bị quá căng thẳng. Bảo đảm trẻ ăn và ngủ đều đặn.

4. Nếu trẻ quá căng thẳng, có thể cùng với trẻ chơi những trò chơi tập thể (đánh bài, cá ngựa…) để giảm căng thẳng.

5. Nói với trẻ sau kỳ thi cả gia đình sẽ làm điều gì đó đặc biệt, cho trẻ một điều gì đó để mong đợi.

Nguồn: http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/giup-tre-vuot-qua-ap-luc-thi-cu-673007.htm

Sinh viên ĐH cũng cần được chú trọng học Đạo đức

Posted: 11 Dec 2012 11:51 PM PST

(GDTĐ)- “Trước thực trạng ý thức đạo đức, lối sống của một bộ phận học sinh, sinh viên còn kém như hiện nay, lỗi không phải hoàn toàn do giáo dục đạo đức của nhà trường. Nhưng, nếu trong các trường đại học, cao đẳng môn học này được mở rộng, được đề cao, được quan tâm đúng mức chắc sẽ góp phần to lớn hạn chế thực trạng này” – Nhận định của TS.Nguyễn Thị Thọ – Khoa Triết học – Trường ĐHSP Hà Nội.

ccxcxc
Trường sư phạm, nơi đào tạo ra những giáo viên tương lai, việc giáo dục đạo đức cho sinh viên càng cần thiết. Ảnh: gdtd.vn

Đạo đức học trong trường ĐH có vai trò quan trọng

PV: Theo TS, vai trò của việc giảng dạy đạo đức trong giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên trong trường ĐH hiện nay như thế nào? Đặc biệt trong trường sư phạm, nơi đào tạo ra những người sẽ thực hiện việc "trồng người" trong tương lai?

TS.Nguyễn Thị Thọ:
Đạo đức là quan trọng, giáo dục đạo đức là cần thiết và suốt đời. Vì vậy, việc giảng dạy đạo đức trong giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên trong các trường đại học hiện nay là hết sức cần thiết. Bởi, thứ nhất, sinh viên – tầng lớp thanh niên trí thức, đang học tập và rèn luyện trên giảng đường của các trường đại học, cao đẳng, sau này ra trường  các em sẽ là những người sẽ gánh vác trọng trách cao cả  kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của thế hệ cha ông đi trước, chèo lái con thuyền cách mạng nước nhà. Đất nước có thực sự phát triển vững mạnh hay không  phần lớn tùy thuộc vào họ.

Thứ hai, Hiện nay, quá trình toàn cầu hóa, giao lưu hội nhập quốc tế đang diễn ra rất mạnh mẽ, tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Quá trình toàn cầu hóa đã góp phần tích cực trong việc tăng trưởng kinh tế và khả năng giúp các nước kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo đói. Nhu cầu vật chất của con người đang ngày càng được thỏa mãn…

Tuy nhiên, trước cơn lốc của toàn cầu hóa, của giao lưu, hội nhập cũng có những tác động ngược chiều đến sự phát triển của mỗi nước, tác động đến truyền thống đạo đức, văn hóa, đời sống tinh thần của con người Việt Nam nói chung và thế hệ trẻ nói riêng. Cùng với đó, Việt Nam đang chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp sang kinh tế thị trường, dưới tác động hai mặt của kinh tế thị trường đang làm thay đổi nhiều chuẩn mực đạo đức điều chỉnh các hành vi cá nhân, đặc biệt là thế hệ trẻ, nhiều biểu hiện của sự xuống cấp về mặt đạo đức đang diễn ra trong gia đình, nhà trường và xã hội. Nhiều học sinh, sinh viên có lối sống buông thả, ăn chơi, đua đòi, không quan tâm đến trách nhiệm của bản thân đối với gia đình và xã hội, sống ít ước mơ, hoài bão.

Thứ ba, Trong chiến lược đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục nước nhà, Đảng ta cũng đã khẳng định "Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành; … nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, cho thế hệ trẻ" .

Đặc biệt trong trường sư phạm, nơi đào tạo ra những người sẽ thực hiện việc "trồng người" trong tương lai thì việc giáo dục đạo đức cho sinh viên lại càng cần thiết. Bởi vì, khi còn ngồi trên giảng đường của trường đại học họ được rèn đức, luyện tài, được giáo dục đạo đức một cách cẩn thận thì không những cho họ, mà sau này ra trường, trở thành những thầy, cô giáo họ còn có trách nhiệm trao truyền lại những tri thức, những hiểu biết đó cho thế hệ tương lại. Nghề nghiệp mà họ thực hiện sau này sẽ là lấy nhân cách giáo dục nhân cách. Và đặc biệt nữa, trong giáo dục đạo đức cho sinh viên sư phạm cần chú ý đến giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho họ – đạo đức nhà giáo.

PV. Việc dạy đạo đức trong nhà trường phổ thông và giảng đường ĐH khác nhau như thế nào, thưa TS?

TS.Nguyễn Thị Thọ: Có khác nhau, trước hết là khác về đối tượng, về đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của người học. Thứ hai là khác về tính đặc thù của môn học. Nếu trong chương trình THPT nội dung giảng dạy về đạo đức chỉ tập trung vào một phần của chương trình Giáo dục công dân lớp 10 – Phần Công dân với đạo đức, thì ở đại học nội dung giảng dạy đạo đức trở thành một môn khoa học – Đạo đức học, có đối tượng nghiên cứu, lịch sử nghiên cứu rõ rệt. Hơn nữa, dạy đạo đức trong trường đại học ngoài những vấn đề chung như trên đã nêu thì thường phải gắn với giáo dục đạo đức nghề nghiệp theo đặc thù của từng trường.

TS.Nguyễn Thị Thọ. Ảnh: gdtd.vn
TS.Nguyễn Thị Thọ. Ảnh: gdtd.vn

Chưa được quan tâm đúng mức

PV. TS đánh giá thế nào về thực trạng dạy học đạo đức trong các cơ sở giáo dục ĐH hiện nay? Môn Đạo đức học trong những năm gần đây đã thực sự được quan tâm đúng mức chưa?

TS.Nguyễn Thị Thọ: Hiện nay, nhìn chung công tác giáo dục đạo đức ở nước ta qua các cấp học đã có những bước chuyển biến khá tốt. Tuy nhiên, vẫn đang còn nhiều bất cập, chưa thực sự đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của chiến lược xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới.

Một thực tế cho thấy, quá trình giáo dục đạo đức ở các bậc học như Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông được thực hiện khá tốt thông qua các môn học, đặc biệt ở môn Đạo đức, môn Giáo dục công dân. Nhưng lên những cấp học cao hơn như trung cấp, cao đẳng, đại học (đặc biệt là đại học) thì quá trình giáo dục đạo đức đôi khi được hiểu là chỉ cần lồng ghép qua nội dung một số môn học nào đó, hoặc người học tự lĩnh hội, tự giáo dục.

PV. Hiện có mấy trường ĐH có dạy môn học này trong nhà trường, sự quan tâm của nhà trường và sinh viên đối với môn học này như thế nào?

TS.Nguyễn Thị Thọ: Tôi không có con số thống kê cụ thể, nhưng qua tìm hiểu tôi nhận thấy:

Ở một số trường đại học, giáo dục đạo đức đã có những chỗ đứng nhất định trong chương trình học, trở thành môn học bắt buộc với số đơn vị học trình khá cao, nhưng quá trình giáo dục đạo đức thường được thực hiện gắn với tính đặc thù nghề nghiệp của từng trường, từng ngành học (ít chú ý đến giáo dục đạo đức truyền thống, đạo đức trong xã hội hiện đại).

Ví dụ, ở Trường ĐH Quản trị kinh doanh, sinh viên được học Đạo đức kinh doanh; Trường ĐH Y, sinh viên được học Đạo đức của ngành Y (y đức của người bác sĩ); ĐH An Ninh, Học viện cảnh sát nhân dân, sinh viên học đạo đức nghề nghiệp – đạo đức của người công an…

Nhưng ở khá nhiều trường đại học môn học này chưa được coi trọng đúng mức, có những trường trong chương trình không có môn Đạo đức học (thường là những trường đại học thiên về khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật).

Thậm chí ở những trường ĐH lớn như Trường ĐH sư phạm Hà Nội hay ĐH khoa học xã hội và nhân văn môn Đạo đức học cũng chưa được quan tâm đúng mức, không phải sinh viên tất cả các khoa đều được học môn Đạo đức học. Ví dụ, ở Trường ĐH Sư phạm Hà Nội hiện nay, có một số khoa môn học này được học  một cách bài bản, chương trình được xây dựng thống nhất, như: Khoa Giáo dục chính trị, Khoa Triết học, Khoa Giáo dục chính trị – Giáo dục quốc phòng. Ở những khoa này sinh viên được học theo một chương trình chung, thống nhất, đi từ kiến thức cơ bản về đạo đức, đạo đức học, đến các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, đến những vấn đề đạo đức của xã hội hiện đại. Giảng viên giảng dạy môn này là những người được đào tạo đúng chuyên ngành Đạo đức học, đã bảo vệ thành công luận văn, luận án về lĩnh vực này.

Tuy nhiên, thời lượng dành cho môn học chỉ có 2 tín chỉ (quá ít) nên cũng chỉ dừng lại ở những nội dung cơ bản chứ không đủ để đào sâu kiến thức, chưa đi được vào đạo đức nghề nghiệp. Một số khoa khác cũng có môn học này nhưng chương trình được xây dựng riêng, đội ngũ giảng dạy môn Đạo đức học được đào tạo đúng chuyên ngành là không nhiều, chỉ là kiêm nhiệm hoặc chuyển từ những chuyên ngành khác sang. Trong khi đó môn Đạo đức học là một khoa học, có lịch sử hình thành, có đối tượng nghiên cứu rất rõ rệt, đòi hỏi phải có những nghiên cứu chuyên sâu để khai thác hết những nội dung của môn học, để truyền tải cho các thế hệ học sinh.

Qua thực tế giảng dạy môn này ở Trường ĐH sư phạm Hà Nội, tôi thấy rằng, khi được học môn Đạo đức học sinh viên rất thích thú, có nhiều sinh viên thông qua bài học, thông qua mỗi phạm trù, mỗi nguyên tắc đạo đức đã có những suy tư, những trăn trở, suy nghĩ về gia đình, quê hương, đất nước, về trách nhiệm của bản thân rất tích cực. Có những giờ học, thông qua những hình ảnh, những câu chuyện đạo đức, những hiện tượng đạo đức trong xã hội đã thực sự có tác động đến thế giới quan, nhân sinh quan của sinh viên, đã tạo ra những giờ học có ý nghĩa "đức dục" rất lớn, nhiều sinh viên mong muốn được học nhiều hơn nữa những giờ học Đạo đức học để hiểu thêm về luân thường đạo lý, đạo nghĩa ở đời, hiểu thêm về những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc và cả những vấn đề đạo đức đang đặt ra trong xã hội hiện đại.

Về phía nhà trường đã có những quan tâm nhất định đối với môn học trực tiếp giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên, nhưng theo tôi cần có sự quan tâm sâu sắc và toàn diện hơn nữa. Như: Thứ nhất, nên đưa môn học này vào chương trình chung, bắt buộc đối với sinh viên tất cả các khoa. Thứ hai, nên có sự thống nhất chung về nội dung, Thứ ba, quan tâm đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ giảng dạy môn học đúng chuyên ngành.

PV: Một trong những vấn đề dư luận xã hội hết sức quan tâm gần đây là sự xuống cấp về đạo đức, lối sống của một bộ phận học sinh, sinh viên. Trước thực trạng này, theo chị, việc giảng dạy môn Đạo đức có nên mở rộng hơn trong các trường ĐH, CĐ?

TS.Nguyễn Thị Thọ: Không chỉ bây giờ mà từ xưa giảng dạy đạo đức đã rất cần, bây giờ càng cần hơn. Theo tôi, trước thực trạng ý thức đạo đức và lối sống của một bộ phận học sinh, sinh viên còn kém như hiện nay lỗi không phải hoàn toàn do giáo dục đạo đức của nhà trường. Nhưng, nếu trong các trường đại học, cao đẳng môn học này được mở rộng, được đề cao, được quan tâm đúng mức chắc sẽ góp phần to lớn hạn chế thực trạng này.

Cũng không phải đến bây giờ, mà đã từ lâu chúng tôi rất mong muốn môn học này được mở rộng, để sinh viên được trang bị thêm những nội dung cơ bản của môn đạo đức học với tư cách là một khoa học độc lập (chứ không phải chỉ lồng ghép qua các môn học khác), góp thêm vào hành trang cho các em ở đời và làm người.

Hiếu Nguyễn (thực hiện)

Nguồn: http://gdtd.vn/channel/2762/201212/Sinh-vien-DH-cung-can-duoc-chu-trong-hoc-Dao-duc-1965537/

Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân: VN chú trọng phát triển Toán học

Posted: 11 Dec 2012 11:51 PM PST

Đó là khẳng định của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân chiều 11/12 trong buổi tiếp GS. Neal Koblitz, một trong những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực nghiên cứu toán học, thuộc Đại học Washington – Seattle, Hoa Kỳ.

 

Hoan nghênh chuyến thăm, làm việc tại Việt Nam của GS. Neal Koblitz, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân mong muốn, bằng uy tín của mình, giáo sư sẽ có những đóng góp thiết thực thúc đẩy hợp tác giữa các trường Đại học của Hoa Kỳ với các trường Đại học của Việt Nam, đặc biệt là với Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán vừa được Thủ tướng Chính phủ thành lập và đang hoạt động hiệu quả.


Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân tiếp GS. Neal Koblitz chiều 11/12.

Phó Thủ tướng cho biết, hiện nay Việt Nam có rất ít tiến sỹ về Toán tham gia giảng dạy. Khắc phục thực trạng đó, Chính phủ đã thành lập Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán để quy tụ, thu hút nhiều hơn các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, học sinh sinh viên tham gia làm toán chuyên nghiệp. Mục tiêu trong 10 năm tới, Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán sẽ làm thay đổi căn bản thực trạng này, đưa toán học góp phần nghiên cứu quan trọng trong nhiều lĩnh vực kinh tế – xã hội của Việt Nam.

Phó Thủ tướng đã thông báo với GS. Neal Koblitz những chủ trương lớn của giáo dục Việt Nam trong đó có quan điểm phát triển môn toán học. Theo đó, ngành giáo dục sẽ thay đổi phương pháp giảng dạy bằng cách gắn những ứng dụng toán học với thực tiễn cuộc sống hàng ngày.

Phó Thủ tướng khẳng định, luôn hoan nghênh, chào đón các nhà khoa học đặc biệt là toán học tới thăm, trao đổi kinh nghiệm, giảng dạy và nghiên cứu tại Việt Nam.

Cảm ơn Phó Thủ tướng đã dành thời gian tiếp, GS. Neal Koblitz đánh giá cao chủ trương nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, đặc biệt là hướng tới nền giáo dục chất lượng cao của Chính phủ Việt Nam. Quyết tâm thành lập Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán đã tạo tiền đề trong việc sử dụng những ứng dụng của toán học để phân tích số liệu và mô hình hóa các vấn đề xã hội và khoa học phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước là bước đi hết sức đúng đắn mà Chính phủ Việt Nam đã lựa chọn. Điều đó chắc chắn sẽ phát huy hiệu quả trong thời gian ngắn sắp tới.

Tại buổi tiếp, GS. Neal Koblitz mong muốn Chính phủ Việt Nam cho phép xây dựng nhà lưu niệm các GS. hàng đầu thế giới đã tới Việt Nam công tác, giảng dạy tại Đại học Thái Nguyên trong thời kỳ chiến tranh. Đây là việc làm có ý nghĩa nhằm giáo dục những trí thức trẻ Việt Nam hiểu biết hơn về sự hợp tác rất đặc biệt này của giới khoa học.

Với tình cảm về đất nước và con người Việt Nam, GS. Neal Koblitz khẳng định sẽ chia sẻ kinh nghiệm cũng như giới thiệu các nhà toán học có uy tín cùng đóng góp trí tuệ để Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán đạt được yêu cầu như mong muốn của Chính phủ Việt Nam.

Theo Báo điện tử Chính phủ

 

Nguồn: http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/pho-thu-tuong-nguyen-thien-nhan-vn-chu-trong-phat-trien-toan-hoc-673020.htm

Nhấn chuột thay vì học viết

Posted: 11 Dec 2012 11:51 PM PST

– Thụy Điển có thu nhập theo đầu người gấp khoảng 40 lần Việt Nam, đồng thời có nền giáo dục được xếp hạng rất cao trên thế giới. Giải Nobel có xuất xứ từ nước này.

Để khỏi lệch hướng khi áp dụng cách học mới, bao giờ các nhà phê bình cũng cho ý kiến nhận xét và cảnh báo. Chỉ khi chứng minh bằng lý thuyết và thực tiễn rằng điều mà các nhà phê bình nêu ra là không đáng lo, thì việc cải tiến mới được phép tiến xa hơn.

Việc tham khảo bài này (và các bài tương tự về tiểu học ở Anh, Pháp, Đức, Mỹ) không phải để làm theo trong hoàn cảnh còn quá nghèo, mà là để biết xu thế chung của giáo dục tại các nước có nền giáo dục tiên tiến.

Đối với một số học sinh lớp 1 ở Thụy Điển thì vở viết đã thuộc về quá khứ. Các em vẫn được học đọc và học viết, nhưng không cần đến bút và vở. Ở ba trường tiểu học tại Stockholm hiện chỉ có máy tính để bàn và máy tính bảng (Tablet-PC ). Chỉ đến năm lớp 2 mới bắt đầu dùng đến bút và vở để học viết.

Tôi cảm thấy bị chọc tức khi các chính trị gia địa phương tin rằng sách vớ đã thuộc về quá khứ”. Với những lời này, Bộ trưởng Giáo dục Thụy Điển Jan Björklund của Đảng Tự do đã bình luận về các lớp mầm non và lớp 1 khi học sinh không dùng bút và sách để học đọc và viết

Ở ba trường học ở quận Sollentuna, Stockholm, thực sự chỉ còn học với máy tính để bàn và máy tính bảng. Thay vì nhận bút chì và bút mực, các em học sinh sáu tuổi lúc nhập học được phát một máy tính mini. Sách giáo khoa cũng không còn sử dụng nữa. Chỉ từ năm lớp 2 mới phát giấy và bút chì để học viết.

Giờ học toán tại lớp 1

Khoảng hơn chục học sinh bảy tuổi được đưa vào thư viện của trường Tegelhagen và cùng ngồi trên gối đệm thành một vòng tròn xung quanh giáo viên Eva Ulmander Eriksson. Cô giáo có một tập giấy cắt thành các dạng hình học để trên lòng, còn trên bàn kê sau lưng cô là một tấm bảng đọc.

Nhiệm vụ của ngày hôm nay là: chụp ảnh tất cả các hình tròn, hình vuông và hình chữ nhật trong môi trường xung quanh và đặt chúng vào một tập tin trên iPad.

“Hôm nay, chúng tôi muốn các em nhận thức rõ hơn các dạng hình học trong môi trường xung quanh. Chụp ảnh sẽ dễ dàng hơn nhiều thay vì phải tự vẽ ra”.

Bọn trẻ được chia làm hai nhóm, đã khoái trí chiếm lĩnh thư viện và các hành lang xung quanh. Màn hình máy tính – nhấn chuột – đó là hình chữ nhật. Đèn trên trần nhà – nhấn chuột – đó là hình tròn. Thật không dễ dàng giữ máy tính bảng sao cho vật cần chụp nằm ở trung tâm khung hình. Khó, nhưng rõ ràng vẫn dễ hơn so với vẽ nó bằng bút và giấy.

Điều đơn giản là, kỹ năng vận động của các em chưa phát triển tốt. Sự khéo léo của bàn tay còn phải học dần. Đặc biệt với việc học viết: đây là một trở ngại. Vậy hãy để máy tính làm thay công việc đó.

Học tập ở nước nghèo: Tường là bảng, mặt đất là ghế ngồi. Ảnh: Internet

1,9 triệu euro là số tiền mà trường Tegelhagen đã đầu tư cách đây ba năm để trang bị máy tính bàn và máy tính cho tất cả học sinh từ lớp mẫu giáo đến lớp chín. Mục tiêu chương trình giảng dạy chưa phải là để các em sử dụng thành thạo máy tính và máy tính bàn (việc sau này) mà là các em để tự tin sử dụng các phương tiện trợ giúp kỹ thuật. Chẳng gì thì Thụy Điển cũng thuộc các nước luôn sử dụng những công nghệ mới nhất trong lĩnh vực CNTT, vậy lĩnh vực giáo dục cũng không được phép tụt hậu – cô hiệu trưởng Eva-Lotta Kastenholm có ý kiến như vậy.

“Đây là một vấn đề dân chủ, cho phép trẻ em tiếp cận các công cụ CNTT. Trường học cần giúp công dân sao cho cuộc đời lao động của các em sau này được suôn sẻ, mau thích nghi. Các công cụ trợ giúp kỹ thuật là rất quan trọng và chúng đã thay đổi qua nhiều thế kỷ. Chúng ta không còn khắc vào đá hoặc sử dụng cát khi chúng ta viết. Cây bút trong tương lai sẽ chỉ sử dụng trong hội họa, sẽ ngày càng ít dùng hơn trong công việc hay cuộc sống riêng tư mỗi khi chúng ta cần giao tiếp”.

Điều này không thể nói được là các em sẽ quên cách kể chuyện và sử dụng ngôn ngữ, như những nhà phê bình thường nói. Ngược lại, cách học mới cho phép "chơi mà học" khi mò mẫm tập viết văn – cô giáo Anna Wiberg nói.

Kinh nghiệm với việc học đọc và viết trong năm đầu tiên thử nghiệm phương pháp dạy này là rất tốt, cô giáo nói, chỉ vào một loạt các hình vuông, được gọi là mã QR, dán trên cửa thư viện. Cô giáo trình bày qua các lần nhấn chuột những câu chuyện cổ tích mà các em học sinh, với sự trợ giúp của phần mềm Apps Puppet Pals, đã xây dựng nên. “Bạn chọn các nhân vật yêu thich, sau đó bạn di chuyển nó đến nơi bạn muốn, đồng thời bạn đọc lời đoạn văn mô tả. Điều này có thể luyện tập tốt vì một câu chuyện phải có mở đầu, cốt truyện và kết luận. Trẻ mẫu giáo chưa biết viết trên máy tính vẫn có thể tạo ra các câu chuyện cổ tích theo cách này, sau đó tải lên YouTube”.

Và qua máy chiếu, học sinh có thể tải từ tài khoản Google của riêng mình lên một bảng ảo, mà mỗi lớp học đều có một cái. Các em lưu trữ mọi tài liệu trên internet. Không chỉ là những hình ảnh của giờ toán ngày hôm nay mà cả các bức tranh được quét (scanner) hoặc bài văn các em đã làm với sự trợ giúp của tai nghe.

Trong hoàn cảnh thế này, làm sao ta dám nghĩ rằng sẽ có ngày con cái ta chủ yếu viết bằng máy tính? Ảnh: Internet

Hai em học sinh Moa và Alfred đang đưa những hình tròn cuối cùng vào tập tài liệu ảo của các em. Cô giáo đưa ra vài lời khuyên về việc làm thế nào để có thể thay đổi kích thước và màu sắc của tiêu đề. Alfred tò mò theo dõi từng bước cách làm trên màn hình: “Cháu thấy học với ipad thích hơn nhiều. Và cũng dễ dàng hơn là viết với bút và giấy. Ở đây chỉ phải nhấn vào các nút”.

Sách cũng vẫn sẽ được tiếp tục phát cho học sinh và việc rèn luyện kỹ năng vận động của học sinh cũng sẽ không bỏ bễ, cô Eva Eriksson Ulmander khẳng định. Nhưng sự hứng khởi của các em học sinh với phương thức học tập mới thì cô giáo không nỡ tước bỏ. Rồi đây chương trình dạy của trườngTegelhagen sẽ áp dụng trên toàn lãnh thổ Thụy Điển.

Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/100611/nhan-chuot-thay-vi-hoc-viet.html

Ban hành mẫu bằng tốt nghiệp cao đẳng mới

Posted: 11 Dec 2012 09:02 PM PST

– Bộ GD-ĐT vừa ban hành Thông tư quy định mẫu bằng tốt nghiệp CĐ mới, trong đó yêu cầu bằng tốt nghiệp phải có 4 trang, kèm theo những quy định cụ thể về màu giấy, màu chữ, nội dung ghi trong bằng…

Mẫu bằng tốt nghiệp cao đẳng mới sẽ có hiệu lực từ ngày 16/11/2013

Cụ thể, mỗi trang của bằng tốt nghiệp CĐ phải có kích thước 19×13,5cm. Trang 1 và trang 4 có nền màu đỏ; trang 1 có hình Quốc huy, các chữ in trên trang 1 có màu vàng; trang 2 và trang 3 có nền màu vàng, hoa văn viền màu vàng đậm, tên bằng tốt nghiệp cao đẳng bằng tiếng Việt và tiếng Anh có màu đỏ, các chữ khác có màu đen; hình trống đồng in chìm chính giữa trang 2, hình Quốc huy in chìm chính giữa trang 3.

Ngoài những quy định phải ghi rõ cơ sở giáo dục, ngành học, họ tên người được cấp bằng, giới tính, ngày tháng năm sinh… bằng tiếng Việt, Thông tư mới cũng yêu cầu các nội dung trên phải được chuyển sang tiếng Anh.

Nếu sinh viên đạt loại Xuất sắc ghi "Excellent", loại Giỏi ghi "Very good", loại Khá ghi "Good", loại Trung bình khá ghi "Average good", loại Trung bình ghi "Ordinary". "Chính quy" ghi "Full-time", "Vừa làm vừa học" ghi "Part-time", "Học từ xa" ghi "Distance learning", "Tự học có hướng dẫn" ghi "Guided Self – learning".

Các phôi bằng tốt nghiệp CĐ đã in, cấp phát theo mẫu quy định tại Thông tư cũ vẫn có hiệu lực và giá trị sử dụng đến hết năm học 2012-2013.

Bộ trưởng Bộ GD-ĐT cũng đã có thông tư ban hành mẫu bằng tốt nghiệp TCCN, thay thế mẫu bằng ban hành năm 2009.

  • Nguyễn Thảo

Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/100524/ban-hanh-mau-bang-tot-nghiep-cao-dang-moi.html

‘Phong trào’ đào tạo thạc sĩ

Posted: 11 Dec 2012 09:02 PM PST

– Chất lượng đa số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ kém, lỗi tại ai?

Bàn về vấn đề này theo tiến sĩ Trần Thị Bích Liễu có 4 câu hỏi lớn cần giải mã: Ai muốn có bằng thạc sĩ và luận án tiến sĩ? Học để có bằng hay để phục vụ công việc tốt hơn và vì sao? Vì sao học viên vẫn được cấp bằng thạc sĩ, tiến sĩ dù chất lượng nghiên cứu không đảm bảo? Làm gì để có "chất lượng thật" của luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ ở Việt Nam?

Dưới đây là phân tích của bà. VietNamNet mong nhận được các ý kiến trao đổi. Thư gửi về: bangiaoduc@vietnamnet.vn.


 

Ảnh minh họa

Ai muốn có bằng thạc sĩ và luận án tiến sĩ?

Giảng viên các trường ĐH, các trường CĐ, cán bộ quản lí các bộ, các ngành, các tổ chức chính phủ.

Cán bộ, viên chức đi học vì yêu cầu của tổ chức, vì để tăng lương, thăng tiến và giữ được vị trí công việc do những tiêu chuẩn về cán bộ đặt ra. Đó là những mục đích tốt nhưng vì sao chất lượng không được như yêu cầu.

Đi học để có bằng hay để phục vụ công việc tốt hơn?

Khi chất lượng thực hiện công việc (ví dụ như chất lượng giáo dục của những người làm công tác giáo dục) vẫn chưa được quan tâm đúng mức, chưa có thang đánh giá rõ ràng thì mục tiêu học để làm tốt hơn công việc chưa được người học đặt ra một cách nghiêm túc.

Khi hầu hết mọi người trong một tổ chức nào đó ít quan tâm đến chất lượng công việc thì ai đó muốn làm việc có chất lượng và yêu cầu tổ chức đó đảm bảo chất lượng thì người đó sẽ bị lạc lõng và sẽ bị loại trừ. Nên học để làm việc tốt hơn là chuyện khó…

Khi đào tạo thạc sĩ trở thành phong trào và nhiều chuyên ngành mở ra các lớp thạc sĩ với số lượng học viên lớn, trong khi số lượng giảng viên ít, không đảm bảo tỉ lệ đào tạo thì khó để thực hiện được nghiêm túc chất lượng đào tạo nên việc học nghiêm túc cũng trở thành xa lạ. Hơn nữa khi phương pháp đào tạo tích cực, hiên đại ít được sử dụng, tài liệu giảng dạy ít cập nhật thì không thể có chất lượng đào tạo tốt để người học có đủ kiến thức và kĩ năng làm việc tốt hơn sau khi tốt nghiệp.

Khi học viên không dành toàn bộ sức lực và thời gian vào việc học tập (học ít vì vẫn phải tiếp tục làm việc nhiều, học đối phó…) thì không thể có chất lượng học tập tốt nên cũng không có chất lượng làm việc tốt.

Vì sao học viên vẫn được cấp bằng thạc sĩ, tiến sĩ dù chất lượng nghiên cứu không đảm bảo?

Chất lượng nghiên cứu như thế nào là đảm bảo? Một công trình nghiên cứu, đặc biệt là luận án tiến sĩ được yêu cầu phải có tính Mới, tính Ứng dụng, có phương pháp nghiên cứu khoa học đảm bảo độ tin cậy thì mới được xem là đảm bảo chất lượng. Đó là những yêu cầu cũng đã được Luật Giáo dục đưa ra và được Bộ GD-ĐT chi tiết hóa trong quy định đánh giá luận án tiến sĩ (Gồm 10 tiêu chí: 1.Chất lượng phần tổng quan tình hình nghiên cứu (phân tích, đánh giá các phương pháp nghiên cứu, kết quả nghiên cứu; 2.Tính cấp thiết của đề tài; 3. Sự không trùng lặp về đề tài, nội dung, kết quả nghiên cứu và sự không trùng lặp của các công bố trong và ngoài nước; 4.Sự phù hợp của các phương pháp nghiên cứu, ý nghĩa, độ tin cậy của các kết quả đạt được; 5. Những giả thuyết, vấn đề được phát hiện, những tài liệu, phương pháp mới được áp dụng trong việc chứng minh các giả thuyết, giải quyết các vấn đề đặt ra và đánh giá kết quả nghiên cứu của luận án; 6. Những đóng góp mới có giá trị về lí thuyết hoặc thực tiễn của luận án; 7.Sự liên quan giữa công trình công bố và kết quả chủ yếu của luận án, chất lượng của các bài báo và uy tín của tạp chí bài đăng; 8.Tính trung thực, minh bạch trong trích dẫn tài liệu; 9. Bố cục phù hợp và hình thức trình bày rõ ràng của luận án; 10. Nội dung và hình thức tóm tắt của luận án phản ánh đúng nội dung của luận án).

Tuy nhiên giữa yêu cầu, thực thi và kiểm soát chưa có sự thống nhất: yêu cầu cao và hay nhưng thực thi chưa đúng với yêu cầu và Lãnh đạo Bộ GD-ĐT chưa có phương pháp kiểm soát việc thực thi. Gần đây Bộ GD-ĐT yêu cầu thẩm định các luận văn, luận án. Nhưng để việc thẩm định đúng, chính xác và khách quan, Bộ cần giao cho Cục Khảo thí và Kiểm định lựa chọn luận văn, luận án một cách ngẫu nhiên và chọn người thẩm định có đủ năng lực, đặc biệt là những người được đào tạo tiến sĩ ở các trường ĐH tiên tiến trên thế giới và những người có nhiều công trình nghiên cứu khoa học có giá trị. Chất lượng luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến sĩ thuộc về trách nhiệm của những ai?

a.Vai trò, trách nhiệm của giáo viên hướng dẫn và người học

Một luận văn thạc sĩ được viết trong 6 tháng là một khoảng thời gian đủ để giải quyết một vấn đề nho nhỏ (nói một cách khiêm tốn) và một luận án tiến sĩ được viết trong 4 năm đủ để giải quyết một vấn đề tương đối lớn của thực tiễn.

Tính mới và tính ứng dụng của luận văn, luận án phụ thuộc vào người hướng dẫn. Người hướng dẫn trước hết phải là người cập nhật các thông tin nghiên cứu mới và có biện pháp để khơi gợi học viên thực hiện một đề tài nghiên cứu mới; là người chỉ ra các nguồn tư liệu tham khảo cần thiết, các vấn đề cần nghiên cứu trong luận văn, luận án và yêu cầu học viên phải tuân theo. Người hướng dẫn luận văn thạc sĩ cần biết đưa ra các câu hỏi khơi gợi ở học viên các vấn đề thực tiễn trong công việc họ cần giải quyết hay của tổ chức nơi họ đang công tác cần được giải quyết để chọn những đề tài có tính ứng dụng thực tiễn. Đối với luận án tiến sĩ họ có trách nhiệm đề cập đến những vấn đề mang tính khoa học cao, các vấn đề nghiên cứu mà quốc tế đang theo đuổi, phát hiện các lỗ hỏng cần được sửa chữa bằng những cách thức mới…để NCS theo đuổi những đề tài có tính mới.

Nhiều học viên đưa ra những yêu cầu vô lí đối với giảng viên như họ không muốn giảng viên bắt làm nhiều bài tập hay đọc nhiều tài liệu, yêu cầu người hướng dẫn đừng bắt họ làm những đề tài mới vì họ không có thời gian để đọc tài liệu, vì còn phải làm việc của cơ quan và bản thân họ không đủ năng lực hay họ làm cũng chẳng để làm gì sau khi tốt nghiệp…Bảo vệ kiểu gì cũng qua và điểm thì không thấp đã tạo nên tính ì của học viên đối với việc làm luận văn và luận án. Học viên không nên sao chép các luận văn, luận án đã bảo vệ trước đó vì điều đó là phạm luật sở hữu trí tuệ và đặc biệt là vấn đề trách nhiệm đối với lương tâm.

Học viên trước hết phải có trách nhiệm với chính việc học tập của mình. Các cơ sở đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ cần có phương pháp đánh giá kiến thức và kĩ năng của học viên một cách chính xác để việc học và dạy diễn ra nghiêm túc hơn.

b.Vai trò, trách nhiệm của hội đồng khoa học

Chấm điểm một cách khoa học khách quan không bị ràng buộc bởi các mối quan hệ là trách nhiệm và lương tâm của hội đồng khoa học chấm luận văn và luân án tiến sĩ. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều hội đồng đã không làm được điều này. Thang điểm đánh giá cũng có phần bất cập đối với việc chấm điểm luận văn thạc sĩ nên việc cho điểm của các thành viên hội đồng cũng có phần khó khăn. Không nên sử dụng thang điểm 20 và không nên để một số điểm lớn cho tiêu chí về tính mới của luận văn thạc sĩ. Khi thành viên hội đồng cho điểm cao ở mục này vô hình chung đã đánh giá không chính xác chất lượng luận văn thạc sĩ; còn nếu cho đúng thì điểm luận văn sẽ bị quá thấp trong khi yêu cầu về tính mới đối với luận văn thạc sĩ không cần đặt ra quá cao như đối với luận án tiến sĩ và trên thực tế, luận văn thạc sĩ đa số ít có tính mới. Các tiêu chí đánh giá luận văn thạc sĩ nên là tính thực tiễn, khả năng ứng dụng, phương pháp nghiên cứu khoa học và tính chính xác của thông tin thu thập được, khả năng tổng quan, phân tích các thông tin nghiên cứu… Nên có điểm khuyến khích cho luận văn có tính mới.

Đối với luận án tiến sĩ nên đề cao tính mới, các đóng góp lí luận và thực tiễn của luận án, phương pháp nghiên cứu khoa học và tính chính xác của thông tin, tư duy phê phán và năng lực sáng tạo của NCS…

c.Vai trò của các trường ĐH, Bộ GD-ĐT và của các cấp Lãnh đạo nhà nước

Các cấp Lãnh đạo nhà nước, Bộ GD-ĐT nên có các định hướng chiến lược cho việc đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực thạc sĩ và tiến sĩ phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và xu hướng phát triển khoa học trong tương lai; có các chính sách đầu tư phù hợp cho nghiên cứu khoa học; qui định và có yêu cầu rõ ràng về chế độ, chính sách đối với tiến sĩ và thạc sĩ để các trường ĐH có cơ sở thực thi. Ví dụ: Chính phủ yêu cầu các trường ĐH có các chính sách và chế độ khác biệt rõ ràng giữa cán bộ có trình độ thạc sĩ và tiến sĩ và yêu cầu khác biệt đối với công việc và các lợi ích mà họ được hưởng: yêu cầu cao đối với kết quả nghiên cứu khoa học và giảng dạy của tiến sĩ, kèm theo là chế độ lương cao hơn và các điều kiện làm việc tốt hơn. Các trường ĐH phải thực thi hóa các yêu cầu này.

Các trường ĐH cần đảm bảo thời lượng dạy và học về phương pháp nghiên cứu khoa học để người học có đủ kiến thức và kĩ năng nghiên cứu khoa học khi viết luận văn và luận án. Hiện tại thời lượng dạy và học về phương pháp nghiên cứu khoa học còn khá bất cập và còn ít ở nhiều cơ sở đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ.

Làm gì để có "chất lượng thật"?

Đảm bảo tính hệ thống của việc yêu cầu cao đối với chất lượng đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ từ chính phủ đến các cơ sở đào tạo, từ người dạy đến người học, từ ban hành chế độ chính sách, chuẩn đánh giá đến việc thực thi và kiểm soát kết quả thực hiện.

Nâng cao chế độ hướng dẫn luận văn thạc sĩ và tiến sĩ, chế độ của hội đồng chấm để nâng cao trách nhiệm và quyền lợi của người chấm (Ví dụ, người phản biện phải bỏ ra ít nhất 2 đến 3 ngày để đọc một luận văn thạc sĩ khi phản biện nhưng chỉ được trả 400 đến 500 nghìn đồng).

  • Trần Thị Bích Liễu

Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/100433/-phong-trao--dao-tao-thac-si.html

Còn nhiều bất cập cần tháo gỡ để trí thức trẻ phát huy

Posted: 11 Dec 2012 08:59 PM PST

Trên là những đánh giá chung của đại diện nhiều cơ quan, đơn vị Nhà nước, trường học trong hội nghị "Phát huy năng lực tri thức trẻ tại các cơ quan, đơn vị TP Cần Thơ" do Ban Văn hóa – Xã hội HĐND TP và Sở Nội Vụ tổ chức ngày 11/12.

Tại hội nghị, ông Nguyễn Khải Hoàn – phó Giám đốc Sở Nội vụ TP Cần Thơ cho biết, đề án đào tạo nguồn nhân lực nước ngoài (đề án 150 Cần Thơ) ở Cần Thơ có 121 ứng viên, hiện có 101 ứng viên về nước làm việc, 20 ứng viên còn đang học ở nước ngoài; trong số ứng viên về nước đã có 6 ứng viên bỏ việc. Ông Hoàn cho rằng, việc có một số ứng viên bỏ việc đã nói lên những bất cập còn tồn tại trong công tác đào tạo nhân lực cần được tháo gỡ.

Qua thống kê của Sở Nội vụ, có trên 50% ứng viên cho rằng công việc được giao chưa đúng với chuyên môn đào tạo. Nhiều ứng viên cho biết ít khi được lãnh đạo trao quyền ra quyết định trong lĩnh vực mình phụ trách, điều đó dẫn đến việc các ứng viên ít được phát biểu đề xuất những vấn đề nào đó lên lãnh đạo, trong khi lãnh đạo đơn vị ít lắng nghe cấp dưới khi quyết định.

Ông Hoàn thừa nhận, qua theo dõi tìm hiểu thái độ ứng xử của lãnh đạo khi nghe các ứng viên nói về tình trạng làm việc của mình, nhiều lãnh đạo đã tỏ ra bực bội. "Các em mới về nước làm việc, môi trường làm việc ít nhiều còn bỡ ngở thì việc các em bày tỏ tâm tư nguyện vọng của mình về vấn đề nào đó là chính đáng nên thái độ của lãnh đạo như thế thì không hay lắm", ông Hoàn đánh giá thêm.

Theo các ứng viên, một trong những bất cập trong việc sử dụng trí thức là vấn đề tiền lương, thưởng chưa tương xứng trách nhiệm được giao. Bên cạnh đó, các ứng viên chưa có niềm tin vào việc sẽ được cất nhấc cao hơn trong cơ quan, đơn vị.

Còn nhiều bất cập cần tháo gỡ để trí thức trẻ phát huy

Đại diện Sở Xây dựng TP Cần Thơ cho biết, việc chưa làm đúng ngành nghề đào tạo là rất lãng phí. Có một thực tế hiện nay nhiều Sở, Ban ngành nói thiếu nhân lực rất chung chung nên đưa đi đào tạo nhiều mà khi về làm thì chẳng có bao nhiêu đúng chuyên môn. Đại diện Sở Xây dựng cũng cho rằng, đào tạo ra nhiều mà không có môi trường để các ứng viên làm việc thì tri thức đó sẽ mai mọt đi.

Cũng cùng nhận định với đại diện Sở Xây dựng, TS. Dương Thái Công – Hiệu trưởng Trung tâm Đại học Tại chức Cần Thơ cho rằng, môi trường làm việc là hết sức quan trọng, trước hết là cơ sở vật chất phải đầy đủ để tạo điều kiện thuận lợi cho các em làm việc, thứ đến là mối quan hệ làm việc giữa đồng nghiệp với đồng nghiệp, lãnh đạo và nhân viên bởi đây là vấn đề khá tế nhị có ảnh hưởng lớn đến sự gắn bó của lực lượng tri thức trẻ khi về làm việc. Ngoài ra, cần có sự dân chủ trong cơ quan để làm sao lực lượng trẻ phát huy sáng kiến, đề xuất suy nghĩ, ý tưởng của mình và được lãnh đạo lắng nghe.

TS. Dương Thái Công trăn trở, qua báo cáo của Sở Nội vụ có đến 6 ứng viên đã bỏ việc, mà mỗi ứng viên có chi phí đào tạo từ 700 triệu đồng đến 1 tỷ đồng, so với điều kiện kinh tế – xã hội ở Cần Thơ thì đây là con số không nhỏ. Do đó, nếu không có giải pháp thì sẽ rất khó giữ nguồn tri thức trẻ.

Nói về chế độ tiền lương, theo TS. Công, thu nhập tiền lương hiện nay vẫn còn nhiều bất cập. "Tôi rất băn khoăn, hiện nay những em có năng lực chuyên môn tốt ra ngoài có thể làm từ 10 đến 20 triệu đồng/tháng nhưng một trường học hay một cơ quan nhà nước thì không có mức như vậy. Nhà trường giữ lại sinh viên giỏi, xuất sắc mà lương thấp như vậy, kể cả đào tạo tri thức nước ngoài về lương cũng không cao thì "thiệt" cho các em quá" – ông Công trăn trở.

Đại diện Sở Xây dựng cũng cho rằng, dù được đào tạo nước ngoài nhưng khi về làm việc, các em cũng cần phải chứng minh năng lực của mình. Nếu các em thụ động, không hòa nhập thì tự các em làm mất đi cơ hội khẳng định năng lực bản thân. Bởi hiện nay, nguồn lực đào tạo không chỉ nước ngoài mà nguồn lực trong nước cũng rất giỏi, các em cũng muốn có việc làm tốt, có sự thăng tiến và như thế xảy ra sự "cạnh tranh" là điều khó tránh khỏi.

Để phát huy nguồn lực trí thức trẻ, nhiều ứng viên kiến nghị các cơ quan nên mạnh dạn bố trí các vị trí quan trọng phù hợp với trí thức trẻ; giao cho các em ra quyết định khi cần thiết trong lĩnh vực chuyên môn. Trong đó, quan trọng là bố trí công việc đúng chuyên môn đã được đào tạo để các em làm hết khả năng của mình.

Theo Sở Nội vụ, lãnh đạo cơ quan cần linh hoạt trong quản lý công chức, viên chức, thực hiện tốt cơ chế dân chủ, tạo điều kiện cho nhân viên gặp gỡ lãnh đạo để đề đạt nguyện vọng tâm tư khi cần thiết. Các ứng viên mong muốn lãnh đạo đơn vị nói đi đôi với làm, thực hiện dân chủ công khai minh bạch và hơn hết cần có một lãnh đạo trực tiếp có trình độ chuyên môn và công tâm.

Đề xuất kiến nghị UBND TP Cần Thơ nên có chính sách chiến lược đãi ngộ hợp lý, trong đó có vấn đề phụ cấp lương, thưởng sao cho phù hợp. TP cần có quy hoạch cụ thể các vị trí công việc xứng tầm kiến thức chuyên môn của các ứng viên; trong đó tiếp tục triển khai các chương trình đào tạo nhưng phải định hướng trước đơn vị công tác để các ứng viên chọn ngành nghề đào tạo phù hợp để về phục vụ tốt nhất.

Huỳnh Hải

Nguồn: http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/con-nhieu-bat-cap-can-thao-go-de-tri-thuc-tre-phat-huy-672793.htm

Comments