Nghề Giáo - Giáo viên - Giáo dục

Nghề Giáo - Giáo viên - Giáo dục


Cần một “Tổng công trình sư” cho “bài toán” SGK

Posted: 22 Oct 2012 11:57 PM PDT

Vấn đề SGK từ lâu đã được dư luận đề cập nhiều khi cho rằng chương trình hiện tại đang quá nặng, thiên về lý thuyết và thậm chí thiếu khoa học, không thực tế, còn nhiều bất cập. GS có thể nói rõ hơn quan điểm của GS về thực trạng này và giải pháp khắc phục?

 

 

Về sách giáo khoa của phổ thông, tôi thấy có nhiều ý kiến đề cập đến chương trình nặng, quá tải, nặng lý thuyết, thiếu thực hành; tóm lại còn nhiều bất cập. Điều này đáng lẽ ra phải làm rõ, minh chứng đầy đủ. Các tác giả viết sách và các nhà phản biện cùng với những nhà quản lý phải bố trí thời gian ngồi lại với nhau để xem xét một cách khoa học, thấu đáo và trách nhiệm. Phải làm rất công phu. Phải phản biện thẳng thắn, khách quan cũng như chủ động tiếp thu sự góp ý.

 

Từ đó thống nhất cách giải quyết một cách căn cơ,  triệt để, hoặc là để chỉnh sửa hoặc viết lại hoàn toàn. Tranh luận mà không xử lý và giải quyết thống nhất thì thêm rối. Tôi còn nhớ có lần, lãnh đạo Bộ đã cùng Nhà xuất bản và các Vụ quản lý bậc học, đã mất nhiều thời gian và cập rập để làm đính chính cho kịp năm học. Tôi cũng không có điều kiện để nghiên cứu, và cũng không có khả năng tìm hiểu hết sách giáo khoa của các lớp học ở bậc phổ thông, nhưng những gì tôi biết thì chương trình và nhiều bài học là nặng nề và quá tải và không phù hợp đối với lứa tuổi học sinh. Tôi cho rằng những bài đó chỉ hợp với học sinh năng khiếu.

 

Chương trình SKG phổ thông hiện tại đang còn nhiều bất cập

Chương trình và sách giáo khoa là để giáo dục đại trà, vì vậy phải vừa sức, phải hết sức cơ bản, nhẹ nhàng, không mang tính đánh đố, tranh cãi, cần tăng bài tập, thực hành, trao đổi, thảo luận, chủ yếu vừa cung cấp kiến thức, vừa giáo dục nhân cách và tăng vốn sống tự nhiên cho các em. Đưa tất cả những nội dung, bài khó vào sách giáo khoa tham khảo. Viết sách là hết sức công phu và mất nhiều thời gian cho dù đó là sách phổ thông hay đại học. Viết cho lớp càng thấp thì càng khó viết. Cần lược bỏ những môn học, những kiến thức thừa, không thực tiễn, không cần thiết.

 

Về giải pháp khắc phục, tất cả phụ thuộc vào Đề án đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục Việt Nam. Sau khi có Đề án, cần thành lập Ban soạn thảo chương trình và viết sách giáo khoa. Nên có "Tổng công trình sư", "nhạc trưởng" về việc này cho cả hệ thống phổ thông để ghép nối các "Công trình sư" biên soạn sách của từng năm học. Cần làm tổng thể và "liền mạch". Đội ngũ phản biện cần độc lập. Không nên làm vội vàng. Đặc biệt là đội ngũ Ban soạn thảo và phản biện phải chịu trách nhiệm về kết quả và chất lượng trước Nhà nước. Cần có đủ kinh phí để họ làm việc. Việc tuyển chọn cán bộ chủ trì các công việc này có vai trò quyết định đến sự thành công của Đề án.

 

Nên rút bớt thời gian học phổ thông

 

 

Không ít chuyên gia giáo dục đề xuất nên rút bớt thời gian học phổ thông, từ 12 năm xuống còn 11 năm hay thậm chí 10 năm. GS nhìn nhận vấn đề này như thế nào và theo ông, tiêu chí cũng như mục đích chính khi xác định thời gian học phổ thông là gì?

 

 

Đây là một vấn đề rất hệ trọng, ảnh hưởng tới toàn bộ hoạt động của giáo dục phổ thông, có hệ lụy tới giáo dục đại học, vì vậy cần  phải phân tích, xem xét, cân nhắc kỹ trước khi quyết định.

 

Muốn trả lời câu hỏi bậc GDPT 12 năm hay rút xuống còn 11 năm hay 10 năm thì phải nghiên cứu, xem xét yêu cầu thiết lập hệ thống giáo dục quốc dân là gì? Nguyên tắc đề xuất cơ cấu khung hệ thống giáo dục quốc dân như thế nào? Từ đó xây dựng mục tiêu chính và tiêu chí, điều kiện thực hiện khi xác định thời gian học phổ thông.

 

Giáo dục phổ thông là giai đoạn đầu chuẩn bị cho sự phát triển nguồn nhân lực toàn diện của đất nước: Cả về thể lực, trí tuệ và nghị lực, cả năng lực và đạo đức; trang bị cho người học những kiến thức văn hóa phổ thông cơ bản toàn diện, đủ để phân luồng vào các lĩnh vực nghề nghiệp khác nhau và chuẩn bị cho việc đào tạo nguồn nhân lực đồng bộ về cơ cấu ngành nghề và trình độ phục vụ đất nước.

 

Mục tiêu của giáo dục phổ thông là thực hiện nâng cao dân trí và phát triển phẩm chất, nhân cách công dân; giáo dục thế hệ trẻ về cả kiến thức chuyên môn và định hướng nghề nghiệp để trở thành  công dân có đủ kiến thức, kỹ năng, có khả năng tự học, năng động, sáng tạo, tự tin và trách nhiệm, có đủ khả năng làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, là công dân tốt của Việt Nam, dễ dàng hội nhập quốc tế. Giáo dục phổ thông là nền tảng của cả hệ thống giáo dục quốc dân và là "pha đầu" của quá trình học tập suốt đời. Khi kết thúc giáo dục phổ thông học sinh có đủ năng lực, kiến thức chuyên môn và phẩm chất để chuyển tiếp học trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học hoặc học nghề hoặc có thể làm việc.

 

Về các tiêu chí để xác định số năm học phổ thông thì chúng ta cũng phải tham khảo phân loại giáo dục theo chuẩn quốc tế UNESCO và lưu ý rằng, trước đây, ta quyết định chọn hệ 12 năm cũng như đa số các nước trên thế giới là dựa vào cơ sở tâm sinh lý lứa tuổi 18. Tuy nhiên, sau mấy chục năm, ngày nay do xã hội thông tin và do sự phát triển của đời sống vật chất mà tâm sinh lý lứa tuổi đã phát triển sớm hơn trước một vài năm.

 

Hiện nay công nghệ thông tin phát triển rất mạnh mẽ, phương tiện dạy và học đã tiên tiến hơn, khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng, dân số già hóa nhanh, thanh niên Việt Nam hiện trưởng thành sớm hơn thế hệ trước, học hết 11 năm tức là đã 17 tuổi, thanh niên đã có nhận thức xã hội tốt và có thể tham gia ngay thị trường lao động. Đây cũng là lứa tuổi tâm sinh lý phát triển cao hơn cùng lứa tuổi cách đây 20, 30 năm.

 

Có thể nói đây là những tiêu chí để xem xét giảm thời gian giáo dục phổ thông từ 12 năm xuống còn 11 năm. Có một thực tế là, trước đây các thế hệ  thanh niên học 11 năm, thậm chí thế hệ kháng chiến chỉ 10 năm nhưng vẫn hoàn thành nhiệm vụ học tập cao hơn, ra nước ngoài học tập vẫn cạnh tranh được với sinh viên ngoại quốc và  vẫn sản sinh ra rất nhiều giáo sư, tiến sĩ, kỹ sư, bác sĩ… giỏi.

 

Hơn nữa giảm được 1 năm học tập là tăng lợi ích kinh tế cho xã hội và cho gia đình, cá nhân. Từ những lý do trên đây tôi cho rằng, có thể tiến hành thiết lập cấu trúc hệ phổ thông 11 năm. Tôi chỉ băn khoăn một điều: hiện nay tình hình kinh tế nước ta đang rất khó khăn, con người và vật chất  huy động làm sao để có thể triến khai được là một vấn đề rất lớn.

 

Một số ý kiến cho rằng thực chất vấn đề nằm ở chỗ GD Việt Nam vẫn chưa làm tốt bài toán phân luồng, dẫn đến tình trạng "thừa thày, thiếu thợ", tiêu cực trong các hệ đào tạo do tâm lý sính bằng cấp. Ý kiến của GS về vấn đề này như thế nào?

 

 

Đúng là giáo dục Việt Nam vẫn chưa làm tốt bài toán phân luồng làm cho mất cân đối trong đào tạo nguồn nhân lực. Chính vì vậy cần tái cấu trúc hệ thống giáo dục quốc dân. Chúng ta nên nghiên cứu để tổ chức hệ thống giáo dục phổ thông 11 năm trong đó 9 năm phổ thông bắt buộc, là giáo dục miễn phí. Sau 9 năm phổ thông bắt buộc là phải phân luồng ngay. Một bộ phận học sinh vào học phổ thông công nghiệp hoặc học nghề. Một bộ phận học tiếp 2 năm trước khi vào học đại học.

 

Số sinh viên học đại học cũng phải thực hiện 70-80% sinh viên đào tạo theo chương trình nghề nghiệp ứng dụng, chỉ 20-30% đào tạo theo chương trình nghiên cứu (tỷ lệ này đã có trong HERA- Đề án đổi mới cơ bản và toàn diện GD ĐH VN giai đoạn 2006-2020). Cần rút ngắn thời gian đào tạo đại học. Cần thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục- đào tạo và giáo dục nghề. Hợp nhất cao đẳng nghề và cao đẳng, hợp nhất trung cấp nghề và  trung cấp chuyên nghiệp. Đây là sự thay đổi rất cần thiết. Chúng ta nói "thừa thầy thiếu thợ" cũng chỉ là một cách nói thôi vì thực chất chúng ta đang thiếu cả thầy cả thợ nhưng cũng lại thừa cả thợ, cả thầy. Thiếu cả thầy giỏi, thầy đạt chuẩn và thiếu cả thợ giỏi, thợ lành nghề.

 

Nếu đào tạo chất lượng tốt, nhân lực có trình độ chuyên môn cao và kỹ năng thực hành giỏi thì không những sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng sẽ dễ dàng kiếm được việc làm ở các doanh nghiệp trong nước và liên doanh với nước ngoài mà còn tham gia được thị trường lao động quốc tế. Sinh viên lại còn có khả năng sáng tạo ra việc làm, làm phong phú sản phẩm cho xã hội, góp phần tăng trưởng sản xuất, thu hút người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Thị trường sẽ tự điều tiết một cách lành mạnh.

 

Đào tạo và cấp bằng là hai việc song hành và là trách nhiệm thông thường của công tác đào tạo. Nhưng tâm lý sính bằng cấp là một sai lầm, là một hậu họa cho xã hội. Ngày xưa, ngay cả khi giáo dục chỉ dành cho số ít, còn gọi là giáo dục "tinh hoa" thì tâm lý sính bằng cấp cũng không có. Việc này là do cơ chế chính sách không hợp lý cần được cấp bách giải quyết, nhất là trong quản lý.

 

Mạnh Hải

Nguồn: http://dantri.com.vn/c25/s25-654300/can-mot-tong-cong-trinh-su-cho-bai-toan-sgk.htm

Thí sinh 3 khu vực khó khăn được hưởng ưu tiên

Posted: 22 Oct 2012 11:55 PM PDT

Thí sinh 3 khu vực khó khăn được hưởng ưu tiên

TT – Ngày 22-10, Bộ GD-ĐT đã công bố quyết định thực hiện một số chính sách đặc thù trong tuyển sinh ĐH, CĐ hệ chính quy từ năm 2012 cho các tỉnh, thành phố thuộc khu vực Tây Bắc, Tây nguyên và Tây Nam bộ.

Theo đó, các trường ĐH, CĐ có trụ sở chính đặt tại các tỉnh, thành phố trong ba khu vực trên được xét tuyển bổ sung đối với các thí sinh có hộ khẩu thường trú từ ba năm trở lên tại các tỉnh, thành phố thuộc khu vực và có kết quả điểm thi ĐH (hoặc CĐ) hệ chính quy năm 2012 (đã cộng điểm ưu tiên đối tượng và khu vực) dưới điểm sàn ĐH (hoặc CĐ) không quá 1 điểm. Các thí sinh được xét tuyển thuộc diện này phải học bổ sung kiến thức một học kỳ. Chương trình, nội dung và cách thức tổ chức học bổ sung kiến thức cho sinh viên thuộc diện này do hiệu trưởng trường ĐH, CĐ quyết định.

Đồng thời, cho phép áp dụng ưu tiên trong tuyển sinh quy định tại điểm b, khoản 1, điều 33 quy chế tuyển sinh ĐH, CĐ hệ chính quy ban hành kèm theo thông tư 09 ngày 5-3-2012 của bộ trưởng Bộ GD-ĐT cho thí sinh thuộc 20 huyện (thị xã) thuộc diện đặc biệt khó khăn, huyện biên giới và hải đảo của khu vực Tây Nam bộ có nguyện vọng xét tuyển vào học các trường ĐH, CĐ trong khu vực.

TRẦN HUỲNH

Nguồn: http://tuoitre.vn/Giao-duc/517257/Thi-sinh-3-khu-vuc-kho-khan-duoc-huong-uu-tien.html

Đánh giá công tác GD toàn diện cho HSSV

Posted: 22 Oct 2012 11:55 PM PDT

(GDTĐ)-Bộ GDĐT tiếp tục có văn bản đề nghị các sở GDĐT, các ĐH, học viện, trường ĐH,CĐ, TCCN đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết liên tịch giữa Bộ GDĐT và Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh về tăng cường công tác giáo dục toàn diện HSSV và xây dựng Đoàn, Hội, Đội trong nhà trường giai đoạn 2008 – 2012, xây dựng kế hoạch phối hợp giữa hai ngành giai đoạn 2012 – 2017.

Theo đó, các nội dung gồm: đánh giá công tác giáo dục toàn diện cho HSSV;  phong trào học tập, nghiên cứu khoa học, rèn luyện tay nghề, nghiệp vụ trong HSSV; các hoạt động đồng hành, hỗ trợ HSSV; công tác xây dựng, củng cố tổ chức Đoàn, Hội, Đội trong nhà trường.

Bộ GDĐT yêu cầu đánh giá tập trung vào hiệu quả việc triển khai Nghị quyết liên tịch số 12 những khó khăn, vướng mắc, bài học kinh nghiệm; đề xuất, kiến nghị nội dung, hình thức cần đổi mới trong quá trình chỉ đạo, tổ chức thực hiện Nghị cũng như đề xuất nội dung phối hợp giữa hai ngành giai đoạn 2012 – 2017.

Đến ngày 18/10/2012, Bộ GDĐT mới chỉ nhận được báo cáo và hồ sơ đề nghị xét khen thưởng của Sở GDĐT tỉnh Bình Định. Để kịp thời tổng hợp báo cáo chung và làm tốt công tác chuẩn bị tổ chức Hội nghị tổng kết Nghị quyết vào đầu tháng 11/2012, Bộ đề nghị các đơn vị khẩn trưởng hoàn thành báo cáo và gửi về Bộ GDĐT trước ngày 24/10/2012.

Lập Phương

Nguồn: http://gdtd.vn/channel/3222/201210/Danh-gia-cong-tac-GD-toan-dien-cho-HSSV-1964328/

Có nên dạy các môn khoa học bằng tiếng Anh ?

Posted: 22 Oct 2012 11:54 PM PDT

Đề án phát triển trường chuyên và dạy ngoại ngữ bắt buộc có đề cập tới việc triển khai dạy bằng tiếng Anh các môn toán và khoa học. Điều này gây băn khoăn về điều kiện thực hiện cũng như mục tiêu của nó.

Có nên dạy các môn khoa học bằng tiếng Anh  ?
Tiết học môn toán bằng tiếng Anh tại Trường THPT Lương Thế Vinh (Q.1, TP.HCM ) - Ảnh: Đào Ngọc Thạch

Mục tiêu không rõ ràng

PGS Văn Như Cương, Hiệu trưởng Trường THPT dân lập Lương Thế Vinh (Hà Nội), thẳng thắn: “Đây là một cách làm rất “phiêu lưu”. Trước hết, chúng ta phải chỉ ra rằng dạy các môn bằng tiếng Anh để làm gì? Ở môn toán, tôi thấy không hợp lý chút nào. Mỗi một định nghĩa, khái niệm… tôi phải dạy đi dạy lại bằng tiếng Việt mà nhiều học sinh (HS) còn không hiểu, yêu cầu thầy giải thích rõ hơn, huống chi nói tiếng Anh".

Đề cập đến mục tiêu, PGS Cương băn khoăn: "Tôi nghe nói đề án này để phục vụ các em trường chuyên đi thi HS giỏi quốc tế. Tôi e rằng nếu như vậy thì quá lãng phí, thi quốc tế đâu có sử dụng tiếng Anh để làm bài”. Nói rõ về điều này, ông Vũ Quốc Lịch, giáo viên (GV) Trường THPT chuyên Hà Nội – Amsterdam, cho biết: "Thông thường tại các cuộc thi quốc tế, trưởng đoàn các nước dịch đề từ tiếng Anh ra tiếng nước mình. Đến giờ thi, thí sinh làm bài, suy luận và trình bày cách giải trong bài thi bằng ngôn ngữ mẹ đẻ. Sau đó trưởng đoàn lại dịch bài giải của các em ra tiếng Anh. Như vậy, việc cho rằng HS nước ta do yếu ngoại ngữ nên đi thi quốc tế gặp khó khăn chưa hoàn toàn đúng".

Ông Kim Vĩnh Phúc, Hiệu trưởng Trường THPT Lương Thế Vinh (Q.1, TP.HCM), cho biết: "Tiêu chí của chương trình chưa được xác định rõ ràng. Việc dạy những môn này để HS có thể đọc, hiểu, viết bài bằng tiếng Anh nhằm hỗ trợ công việc học tập nghiên cứu sau này hay để HS có thể tham gia các kỳ thi, chương trình quốc tế? Chế độ thi cử áp dụng cho những HS theo học chương trình này như thế nào, các em làm bài thi bằng tiếng Anh hay tiếng Việt cũng là điều mà các trường đang băn khoăn".

Trao đổi về vấn đề này, tiến sĩ Nguyễn Cam, Trường ĐH Sư phạm TP.HCM, khẳng định: "Mục tiêu của chương trình hoàn toàn mơ hồ, không rõ ràng. Nếu để phục vụ việc du học của HS thì không cần thiết, bởi tôi thấy các trường ĐH nước ngoài chỉ kiểm tra, phỏng vấn trình độ tiếng Anh chứ không đòi hỏi HS phải học qua chương trình này".

Ở một khía cạnh khác, ông Lịch cho rằng chủ trương dạy – học các môn khoa học bằng tiếng Anh thì tuyển HS đầu vào phải ưu tiên tiêu chí ngoại ngữ. Điều đó có thể gây ra nguy cơ chỉ tuyển được HS có khiếu ngoại ngữ mà bỏ sót HS mạnh về nghiên cứu khoa học. Việc giảng dạy bằng ngoại ngữ chắc chắn làm HS căng thẳng hơn, vậy thì làm sao phù hợp với tiêu chí "giảm tải" cũng của ngành GD-ĐT?

"Tìm giáo viên như mò kim đáy biển"

 

Ở môn toán, tôi thấy không hợp lý chút nào.

Mỗi một định nghĩa, khái niệm… tôi phải dạy đi dạy lại bằng tiếng Việt mà nhiều HS còn không hiểu, yêu cầu thầy giải thích rõ hơn, huống chi nói tiếng Anh

PGS Văn Như Cương Hiệu trưởng Trường THPT dân lập Lương Thế Vinh – Hà Nội

Khi áp dụng đề án này, các trường đều có chung một khó khăn là thiếu GV vừa giỏi tiếng Anh vừa giỏi các môn chuyên. Trình độ ngoại ngữ của HS cũng không đồng đều, dẫn tới khả năng tiếp thu môn học bằng tiếng Anh rất khó khăn.

Ông Nguyễn Văn Hiếu, Trưởng phòng GD trung học Sở GD-ĐT TP.HCM, nhìn nhận: "GV dạy tốt chương trình này chưa nhiều trong khi nguyện vọng của HS ngày càng tăng". Trong khi đó, bà Nguyễn Thị Lệ Nhân, Hiệu trưởng Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai (TP.HCM), nêu thực trạng: "GV tự nghiên cứu, tự bồi dưỡng mà không hề có lớp đào tạo chính quy, chuyên biệt về phương pháp giảng dạy các môn bằng tiếng Anh nên sẽ khó đảm bảo truyền tải hết kiến thức cho HS". Ông Lê Hồng Sơn, Giám đốc Sở GD-ĐT TP.HCM, cũng xác nhận: "Vấn đề khó khăn nằm ở khâu GV. Không thể lấy GV chuyên Anh qua dạy, còn tìm GV những bộ môn này đáp ứng được ngoại ngữ như mò kim đáy biển".

Nhìn nhận vấn đề, tiến sĩ Nguyễn Cam quả quyết: "Đội ngũ GV là quan trọng nhất. Hai trường sư phạm được coi là trọng điểm của Việt Nam cũng không đào tạo GV kiểu này. Đã không có thầy thì làm sao có trò nên đưa chương trình này vào chỉ mất thời gian và gây khó mà thôi. Người trong nghề phải sáng suốt để biết cái nào cần thiết cho HS".

Ông Cam nhấn mạnh việc dạy ở đây không đơn giản là đọc tài liệu nước ngoài mà phải nói được nhiều chuyện liên quan đến khoa học và phản biện những vấn đề liên quan. Do vậy, đòi hỏi trình độ GV khá cao và chắc chắn chẳng mấy người đáp ứng được yêu cầu trên.

Tuệ Nguyễn – Bích Thanh

Nguồn: http://www.thanhnien.com.vn/Pages/20121022/Co-nen-day-cac-mon-khoa-hoc-bang-tieng-Anh.aspx

Nỗi buồn của một vị giáo sư

Posted: 22 Oct 2012 11:53 PM PDT

– Trong một cuộc họp của bộ môn, vị giáo sư (GS) này đã bị chất vấn: "việc ông
không có công bố quốc tế nào trong 5 năm gần đây và cũng không có bằng
chứng cho thấy ông đang làm ít nhất một bài toán lớn trên thế giới là
không thể chấp nhận được đối với chức vụ GS mà ông đang
giữ."

 

Ảnh minh họa


Chuyện về một vị giáo sư ở Phần Lan

Chức vụ GS ở các ĐH Phần Lan được xem là "bất khả xâm phạm". Các ĐH ở Phần Lan không có chức vụ PGS như ở các nước. Dưới GS là các trợ giảng cao cấp (senior assistants, thường trực) hay các docent (không thường trực), tương tự như chức vụ PGS ở các nước, và được bổ nhiệm có thời hạn.

Mặc dù chức vụ GS được bổ nhiệm không thời hạn, nhưng gần đây các ĐH ở Phần Lan đã "hoài nghi" về tính hiệu quả của việc này. Xin kể ra đây một trường hợp cụ thể mà người viết đã biết.

Giáo sư N. từng tốt nghiệp tiến sĩ từ một ĐH thuộc hàng tốp trên thế giới, từng là một học giả Fulbright cao cấp (senior Fulbright scholar) tại một ĐH ở Mỹ. Ông được bổ nhiệm chức vụ GS kiêm trưởng bộ môn tại một ĐH ở Phần Lan cách đây 13 năm.

Trước khi được bổ nhiệm, đương nhiên ông đã có những công trình khoa học có uy tín về cả số lượng lẫn chất lượng. Tuy nhiên trong 5 năm gần đây, ông không có một công bố quốc tế nào.

Trong một cuộc họp của bộ môn, vị GS này đã bị chất vấn: "việc ông không có công bố quốc tế nào trong 5 năm gần đây và cũng không có bằng chứng cho thấy ông đang làm ít nhất một bài toán lớn trên thế giới là không thể chấp nhận được đối với chức vụ GS mà ông đang giữ."

Việc một GS đại học bị chất vấn như thế có thể là một "cú sốc" ở một số ít nước trên thế giới, nhưng ở Phần Lan thì đó là chuyện bình thường. Các ĐH ở Phần Lan xem chức vụ GS được gắn liền với trách nhiệm và quyền lợi, chứ không phải là một phẩm hàm như ở một số nơi.

Theo quan sát, người viết thấy vị GS này rất "sầu não" trong giai đoạn này. Ông ít vào trường hơn. Theo một GS khác trong hội đồng khoa học thì rất có thể vị GS này sẽ bị giảm lương cho đến khi ông ấy có công bố trở lại, hoặc chứng minh được ông ấy đang nghiên cứu những vấn đề lớn của thế giới. Trước tình hình căng thẳng như thế, vị GS này đã quyết định xin tạm vắng mặt một thời gian (on leave) để trở lại Mỹ làm nghiên cứu.

Trong thời gian gần đây, một số ĐH ở Phần Lan đã bắt đầu cảnh giác! Một số nơi đã từng bước áp dụng mô hình bổ nhiệm chức vụ GS của Mỹ. Chức vụ "GS trợ giảng" (assistant professor), PGS (associate professor) đã bắt đầu xuất hiện ở một số ĐH ở Phần Lan.

Vốn mà một đất nước có tiếng là có nền giáo dục xuất sắc trên thế giới, nhưng không vì thế mà các ĐH ở Phần Lan cố chấp hay tự phụ. Họ sẵn sàng thay đổi, khi cần thiết, để hoà mình vào dòng chảy chung của thế giới. Đây chắc là một bài học không thừa cho nhiều nước, nhất là các quốc gia đang phát triển.

Chế độ thường trực mãn đời của các GS ở Bỉ đã bị bãi bỏ

Chia sẻ về vấn đề này, GS Nguyễn Đăng Hưng, nguyên trưởng Khoa cơ học phá hủy thuộc Đại học Liège (Bỉ), người đã từng có 40 năm giảng dạy và nghiên cứu trên đất Bỉ, cho biết: "Bỉ là một nước khác ở Châu Âu cũng có một nền giáo dục đáng nể.

Các ĐH ở Bỉ cũng coi trọng việc nghiên cứu khoa học. Việc xuất bản các bài nghiên cứu khoa học trên các tạp chí quốc tế là điều kiện không thể không có để có thể được bổ nhiệm lên các chức vị: PGS rồi GS thực thụ. Đây là những chức vị cao quý được người dân trọng nể, có lương bổng khá cao cho nên việc chọn lựa nhân sự được tổ chức một cách rất nghiêm túc và bảo đảm tính dân chủ…

Không vì vậy mà không có những trường hợp buồn. Một thiểu số GS sau vài năm được bổ nhiệm đã lợi dụng chức vụ có tính thường trực này, sao nhãng nghiên cứu khoa học, thậm chí còn từ chối đứng lớp, giao việc cho các trợ giảng thay thế mình.

Để khắc phục tiêu cực này, trường thường gởi thư văn cho giảng viên yêu cầu báo cáo chi tiết sinh hoạt trong năm. Các báo cáo sẽ đăng tải trên các trang của khoa để dư luận phê phán. Mỗi năm, sinh viên thực hiện chấm điểm các giáo sư rồi công bố trên các diễn đàn đại học. Gần đây, chế độ thường trực mãn đời của các giáo sư bị bãi bỏ".

"Nếu tôi là vị GS đó, tôi không buồn"

Theo GS Nguyễn Văn Tuấn, trưởng nhóm nghiên cứu thuộc Viện nghiên cứu Y khoa Garvan (Úc), nghiên cứu viên cao cấp tại Hội đồng quốc gia về nghiên cứu y khoa và y tế Úc (NHMRC),GS tại ĐH New South Wales (Úc), thì nếu ông là GS N. thì ông sẽ không buồn.

Cụ thể, GS Nguyễn Văn Tuấn cho biết: "Trong hệ thống khoa bảng bậc đại học, GS là chức danh cao nhất, nên rất được xã hội trọng vọng. Đó cũng là cái "đỉnh" khoa bảng mà nhiều người muốn đạt đến. Nhưng khi đã đạt đỉnh thì không phải ai cũng giữ được vị trí đó.

Câu chuyện buồn của vị GS này thực ra là khá phổ biến trong ĐH phương Tây, và chắc cả ở Việt Nam nữa.

Năng suất khoa học của một cá nhân có khi phụ thuộc vào giai đoạn sự nghiệp. Sau khi xong tiến sĩ (được xem như là xong phần tập sự làm nghiên cứu), ứng viên phải phấn đấu để được đề bạt chức danh Assistant Professor, có lẽ tương đương với "PGS" trong hệ thống Việt Nam. Khi đạt được vị trí Assistant Professor, ứng viên còn phải nỗ lực nhiều để bước vào cấp Associate Professor. Nhưng từ Associate Professor lên Professor thì cả một quá trình rất gian nan. Rất nhiều người chỉ dừng ở vị trí Associate Professor cho đến ngày nghỉ hưu.

Để được đề bạt chức danh Professor, ứng viên phải có nỗ lực gấp 2, 3 lần so với giai đoạn đầu trong sự nghiệp khoa bảng. Không ít người chẳng nghiên cứu hay công bố gì sau khi đạt được chức danh Professor. Có nhiều nghiên cứu cho thấy đây là tình trạng chung, và trường hợp vị GS đề cập trong bài không phải là cá biệt.

Tại sao năng suất của Professor thường thấp hơn trước khi họ phấn đấu? Ở Úc, có thời chức danh này là vĩnh viễn, không ai có thể "giáng chức" họ (ngoại trừ đương sự phạm sai lầm nghiêm trọng như sách nhiễu tình dục). Có lẽ vì chức danh này ở mức "đỉnh" nên khi người ta đạt được thì không có động cơ để phấn đấu nữa. Cũng có thể họ "hết hơi", sức sáng tạo không còn dồi dào như trước kia. Đó có thể là một lí do giải thích tại sao khi một cá nhân được đề bạt chức danh Professor thì năng suất khoa học bắt đầu suy giảm.

Một lí do thực tế khác mà đôi phần là sau khi đề bạt họ quá bận. Tôi có thể lấy cá nhân mình ra làm ví dụ. Thật ra, ngay từ lúc ở chức Associate Professor, ứng viên đã rất bận với việc hành chính và quản lí. Thêm vào đó là những việc có thể gọi là "vác ngà voi đi làm chuyện thiên hạ" (hiểu theo nghĩa làm việc không có lương bổng). Đó là phục vụ trong các hội đoàn chuyên ngành, các tập san khoa học. Khi đã đạt chức Professor, nhiệm vụ này càng nặng nề hơn. Thêm vào đó và quan trọng hơn là xin tài trợ. Trong hệ thống khoa học hiện đại, Professor như là một giám đốc một doanh nghiệp khoa học, tức phải lo quản lí nhân sự, quản lí tài chính, quản lí dự án, xin tài trợ, tranh thủ và vận động cho "thương hiệu" trong ngành… Những "việc không tên" này tốn rất nhiều thời gian, và là một yếu tố cho sự suy giảm năng suất khoa học của GS.

Nhưng tất cả những yếu tố đó không đủ thuyết phục các hiệu trưởng ĐH. Theo họ, đã là GS thì phải có công trình nghiên cứu và có công bố quốc tế thường xuyên, vì đó là tiêu chuẩn số 1 cho chức danh GS. Do đó, trong 3 thập niên qua đã có một cuộc "cách mạng" trong việc đề bạt các chức danh khoa bảng.

Hệ quả là tất cả các GS phải được đánh giá thường kì (ví dụ như mỗi 5 năm), và chức danh GS không phải là vĩnh viễn. Chẳng hạn như cá nhân tôi, cứ mỗi 5 năm, tôi lại phải trả lời những câu hỏi của hội đồng khoa bảng (academic board) liên quan đến năng suất của tôi trong vòng 5 năm qua, và đặc biệt tự tôi phải giải thích tại sao tôi có quyền giữ chức danh đó trong 5 năm tới.

Công bằng mà nói, việc tái đánh giá cũng hợp lí. Trong khoa học, đào tạo và nuôi dưỡng thế hệ tiếp nối rất quan trọng, vì không có thế hệ tiếp nối thì khoa học đi vào ngõ cụt. Do đó, nếu một GS không còn khả năng nghiên cứu và không có lí do tốt để giải thích, thì nên nhường cho thế hệ kế tiếp.

Dĩ nhiên, GS là một chức danh quan trọng và họ là một "tài sản" quốc gia, cho nên nhường cho thế hệ kế tiếp không có nghĩa là họ sẽ "khuất bóng", mà nên đóng vai trò cố vấn, giúp đỡ, và hướng dẫn. Do đó, nếu tôi là vị GS đó, tôi không buồn; ngược lại, tôi rất vui vẻ nhường sân chơi khoa học cho thế hệ sau."

  • TS. Lê Văn Út

Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/93575/noi-buon-cua-mot-vi-giao-su.html

Bốn “trọng bệnh” của nền giáo dục Việt Nam

Posted: 22 Oct 2012 11:53 PM PDT

Hội nghị BCH Trung ương lần thứ sáu đã xem xét, thảo luận về đề án đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT và đề án phát triển KHCN. Báo Lao Động có cuộc trao đổi với GS-TSKH Trần Ngọc Thêm – Chủ tịch Hội đồng KH - ĐT Đại học Quốc gia TPHCM, Uỷ viên Hội đồng Lý luận T.Ư – về hai nội dung trên.

GS vào thẳng vấn đề:

- Trước hết, về thực trạng giáo dục, tôi xin được nói thẳng thắn là hỏng ở các cấp học, trên khắp các bình diện, hỏng một cách căn bản và toàn diện. Chính vì thế nên Đảng, Nhà nước và tất cả người dân đều dễ dàng thống nhất với nhau về việc đổi mới giáo dục và đào tạo một cách căn bản và toàn diện như một nhu cầu cấp bách. Giáo dục VN theo tôi đang mắc 4 trọng bệnh: Bệnh thành tích, bệnh cào bằng, bệnh suy dinh dưỡng và bệnh gian dối.

Bệnh thành tích rất nặng ở khối phổ thông, giáo viên muốn lớp mình giỏi nên cho toàn điểm 9 – 10. Trường muốn thành tích cao, ngành cũng vậy. Cả nước chạy theo thành tích, lúc nào cũng muốn có nhiều trường đại học, có nhiều người tốt nghiệp. Điều này cho thấy người VN hiếu danh hơn hiếu học, tình trạng học giả, dạy giả, bằng thật rất nhiều, còn học thật mà không nhất thiết cần bằng thì rất ít.

Bệnh cào bằng dẫn đến tình trạng mở trường theo phong trào, tỉnh nào cũng có trường ĐH nhưng không có đủ giảng viên. Hiện đại hóa theo phong trào, trường nào cũng chuyển sang học chế tín chỉ, trong khi rất ít trường đáp ứng được những điều kiện tối thiểu để làm tín chỉ. Cào bằng đánh giá chất lượng, cái gì cũng làm nhưng không phân hóa rõ ràng chất lượng, kết quả. Quản lý khung học phí cũng cào bằng, dẫn đến tình trạng tất cả các cơ sở đào tạo đều thiếu kinh phí. Bệnh suy dinh dưỡng chính là cái gốc của vấn đề giáo dục. Cơ sở vật chất của các trường thiếu và lạc hậu. Lương giáo chức quá thấp, không đủ sống nên quá nửa số giáo viên không an tâm với nghề. Nhà nước đầu tư 20% tổng ngân sách cho giáo dục, nhưng số tiền này đi vào cơ sở hạ tầng gần hết, thành ra vẫn như muối bỏ biển.

Bệnh gian dối là hệ quả của tất cả ba bệnh trên. Bệnh thành tích là nguồn gốc đầu tiên dẫn đến gian dối. Các con số tốt nghiệp cao hằng năm là gian dối. Bệnh cào bằng dẫn đến gian dối. Có phong trào nhưng hữu danh vô thực, cái gì cũng có nhưng không có gì chất lượng cao. Bệnh suy dinh dưỡng càng sinh ra gian dối. Trường nào cũng tìm  đủ mọi lý do cao cả để tăng các hệ đào tạo, tăng số lượng SV; báo cáo tỉ lệ số SV trên một giảng viên gian dối – tất cả thực chất cốt để thu học phí lấy tiền nuôi cán bộ, nuôi trường.

Từ 4 bệnh này sinh ra  đủ mọi hậu quả tệ hại: Chất lượng giáo dục xuống cấp, đạo đức học đường xuống cấp, nguồn nhân lực do hệ thống giáo dục cung cấp cho xã hội thiếu tính sáng tạo, khả năng nghiên cứu hạn chế nên KHCN trì trệ; năng lực thực hành thấp.


Bốn

Đã có nhiều chuyên gia chỉ ra bệnh của giáo dục VN. Đối với 4 trọng bệnh mà Giáo sư vừa chẩn, xin hỏi có cứu chữa được không, nếu có thì cần bốc thuốc thế nào?

- Trước hết là cần xác định lại mục tiêu, phải căn cứ vào hệ giá trị định hướng của con người VN trong giai đoạn toàn cầu hóa, công nghiệp hóa mà xác định mục tiêu. Để tránh bệnh thành tích thì mục tiêu trước hết của giáo dục chưa phải là số lượng, mà phải là chất lượng. Sản phẩm hàng hóa kém chất lượng còn dùng tạm được, chứ sản phẩm giáo dục mà kém chất lượng thì thà đóng cửa trường còn hơn, vì càng cho ra nhiều bao nhiêu thì càng gây nguy hại cho xã hội bấy nhiêu.

Liều thuốc giải pháp phải vừa đủ bao quát để không sa đà vào những chuyện vụn vặt, đồng thời phải vừa đủ cụ thể để đảm bảo triển khai đúng hướng. Theo tôi, nên tập trung vào 5 nhóm giải pháp, gồm: Tổ chức hệ thống giáo dục; xây dựng nhân lực làm giáo dục; tăng cường vật lực cho giáo dục; thay đổi cơ chế giáo dục và đảm bảo chất lượng của hoạt động giáo dục.

Để tránh cào bằng, tổ chức hệ thống giáo dục cần chú trọng không chỉ phân hệ, phân cấp mà còn phải phân tầng giáo dục, mỗi tầng mỗi hệ có mục tiêu khác nhau và do vậy, cách quản lý, cách đầu tư, mức độ tự chủ cho phép phải rất khác nhau. Chẳng hạn, việc học trước hết phải có mục tiêu, học làm người rồi sau mới là học tri thức và học phương pháp làm việc. Cho nên, các cấp học đầu tiên phải thật coi trọng việc dạy làm người. Thầy cô mà chạy theo thành tích thì học trò sẽ chỉ học được cách gian dối, đối phó; thầy cô mà chỉ đòi hỏi học thuộc lòng, bắt học trò viết văn theo đúng mẫu cho sẵn thì sẽ triệt tiêu luôn tính sáng tạo.

Từ mẫu giáo, tiểu học lên THCS, THPT, vai trò của chức năng học làm người sẽ giảm dần, vai trò của học tri thức phải tăng dần. Nhưng từ THPT lên ĐH, sau ĐH, vai trò học tri thức nên giảm dần, mà vai trò học phương pháp phải tăng dần. Và bao trùm lên, tuy mục tiêu của mỗi giai đoạn mỗi khác nhau, nhưng những yêu cầu về hệ thống giá trị thì phải xuyên suốt. Tiểu học cũng phải chú trọng dạy tư duy sáng tạo, và ĐH cũng không được quên dạy làm người.

Về nhân lực giáo dục, có thể nói toàn bộ sự xuống cấp trầm trọng của giáo dục hiện nay trước hết có nguyên nhân từ giáo dục phổ thông quá kém. Trình độ, năng lực, bản lĩnh các thầy cô dạy phổ thông hạn chế là do chất lượng đầu ra của ngành sư phạm kém. Đầu ra kém là vì số lượng và chất lượng đầu vào ngành sư phạm ngày càng ít và thấp. SV không chọn ngành sư phạm là do cơ hội kiếm việc làm thấp, thu nhập thấp, địa vị nhà giáo không được tôn trọng. Không chỉ ngành sư phạm mà chất lượng SV tốt nghiệp tất cả các ngành ĐH đều ngày càng kém đi. Lý do rất đơn giản: Nhìn tấm gương các thầy, các giáo sư được đối xử như thế, SV giỏi không mấy ai chịu ở lại trường. Cái gốc của nhân lực giáo dục nằm ở chất lượng giáo viên ĐH. Cho nên giải pháp chính là, muốn có thầy cô phổ thông giỏi phải có thầy cô ĐH chất lượng, muốn có thầy cô cả phổ thông lẫn ĐH chất lượng thì giáo viên phải có thu nhập đủ sống mà không cần phải dạy thêm, đồng thời phải quản lý tốt để đảm bảo lao động cả về số lượng lẫn chất lượng.

Đến đây ta đã đụng chạm đến vấn đề mấu chốt của mấu chốt là vật lực giáo dục. Không có quốc gia nào mà nhà nước bao cấp được toàn bộ nền giáo dục. Việc xã hội hóa giáo dục nhằm đến nhiều mục tiêu, nhưng trong đó có mục tiêu huy động nguồn lực tài chính, đến lượt mình, việc đó liên quan đến chuyện kinh tế thị trường. Đừng né tránh mà nên công khai thừa nhận sự tồn tại của nhiều loại hình nhà trường, trong đó có loại trường hoạt động vì lợi nhuận. Chỉ có điều khác là thị trường kinh tế thì điều tiết bằng giá cả, còn thị trường giáo dục phải điều tiết bằng chất lượng. Bên cạnh đó, cần sử dụng thêm nhiều giải pháp khác để thu hẹp phạm vi bao cấp của ngân sách để nâng chất lượng đầu tư, ví dụ: Cổ phần hóa, phân tầng và cho mở trần học phí đối với một số loại trường (theo kiểu trường đại học quốc tế).

Về cơ chế giáo dục, tăng cường hơn nữa việc tự chủ là một giải pháp sẽ giúp giải quyết  cả chất lượng  lẫn tài chính. Nếu cứ cho ”bú mớm” mãi mà không tăng cường tự chủ, phân cấp quản lý, cởi trói cho giáo dục thì giáo dục sẽ không thể cất cánh được. Tuy nhiên, nếu tự chủ tràn lan, cào bằng thì cũng rất nguy hiểm. Các trường ĐH chưa đủ tầm thì không nên cho tự chủ đại trà, nhưng trường lớn thì không thể trói buộc bởi nhiều cơ chế. Tăng cường dân chủ trong giáo dục cũng là một giải pháp khác về cơ chế. Cuối cùng, hoạt động giáo dục phải đảm bảo chất lượng. Tư tưởng của nhiều thầy cô rằng điểm chẳng là gì cả, nên cấp phổ thông thì cho rộng tay để có thành tích, cấp ĐH và sau ĐH cho rộng tay để thu hút SV là nguy hại vô cùng cho tương lai của giáo dục nước nhà.

Tại một cuộc họp của Uỷ ban Thường vụ QH gần đây có nêu ra vấn đề  là chúng ta có hàng chục ngàn tiến sĩ, 9.000 giáo sư nhưng ít có  phát minh, sáng chế, trong lúc nông dân lại làm được điều đó, Giáo sư có nhận định gì về thực tế này?

- Xin được nói ngay, nghiên cứu khoa học có hai loại: Nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu cơ bản có thể đi trước thời đại rất nhiều, nhưng nghiên cứu ứng dụng thì ngược lại, phải gắn với nhu cầu xã hội. Hiện nay, nhiều nghiên cứu khoa học và chương trình đào tạo chưa sát thực tế, chưa nắm bắt nhu cầu từ sản xuất, đời sống.  Tôi xin mở rộng thêm, xuất phát từ quan sát bề ngoài, lâu nay nhiều người cho rằng người Nam Bộ không chịu học cao, nhưng không thấy nguyên nhân là vì  người Nam Bộ vốn thiết thực, nên họ sẵn sàng tự học để có những kiến thức họ cần chứ không chịu mất thời gian ngồi học những thứ viển vông.

Chúng ta từng chứng kiến các kỹ sư ”hai lúa” Nam Bộ như Trần Văn Dũng ở Trà Vinh chế tạo máy hút bùn bán khắp cả nước; Năm Hiếu ở Cần Thơ chăm sóc mai tết không rụng, mỗi mùa thu mấy tỉ đồng; "thần đèn" Nguyễn Cẩm Lũy – Tư Lũy gây kinh ngạc cho giới kỹ sư chuyên nghiệp.

Vậy thì làm cách nào để các nhà khoa học làm ra được những sản phẩm công nghệ áp dụng được vào thực tiễn đời sống, thưa Giáo sư?

- Kinh nghiệm của thế giới là phải kết hợp 3 chức năng: Nghiên cứu khoa học – đào tạo – gắn kết với sản xuất trong một loại trường gọi là đại học nghiên cứu (Research University). Trong khi ở tất cả các trường ĐH của ta, kể cả hai ĐH quốc gia, vì lý do kinh tế nên đều coi nhiệm vụ đào tạo là chính, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học là phụ. Lãnh đạo các trường chỉ thích giữ biên chế giảng dạy, bởi vậy mà nghiên cứu viên rất ít hoặc không có. ĐH nghiên cứu là loại trường có hai lực lượng cán bộ với tỉ lệ trách nhiệm khác hẳn nhau: Cán bộ giảng dạy dành khoảng 70% thời gian cho giảng dạy + 30% cho nghiên cứu; và cán bộ nghiên cứu dành khoảng 70% thời gian cho nghiên cứu + 30% cho giảng dạy. Đây là loại trường đào tạo đội ngũ lãnh đạo cho quốc gia và nguồn nhân lực tinh hoa cho đất nước. ĐH nghiên cứu là chìa khóa cho việc xây dựng nền kinh tế tri thức, đưa đất nước vượt qua bẫy thu nhập trung bình.

Đức là nước đề xuất ra mô hình ĐH nghiên cứu từ thế kỷ 19, nhờ các trường này mà Đức vượt lên trở thành quốc gia mạnh hàng đầu Châu Âu vào đầu thế kỷ 20. Chính các ĐH nghiên cứu đã giúp Mỹ giữ vững vị trí đứng đầu thế giới. Trung Quốc thực hiện quyết liệt việc xây dựng ĐH nghiên cứu từ năm 1995; Nga đưa ĐH nghiên cứu vào Luật Giáo dục từ năm 1996, thực hiện quyết liệt từ năm 2009. Thái Lan cũng làm từ năm 2009. VN không thể không xây dựng ĐH nghiên cứu, do vậy làm sớm chừng nào tốt chừng ấy.

- Xin cảm ơn Giáo sư.

Theo Lao Động

Nguồn: http://dantri.com.vn/c25/s25-654199/bon-trong-benh-cua-nen-giao-duc-viet-nam.htm

Comments