Nghề Giáo - Giáo viên - Giáo dục

Nghề Giáo - Giáo viên - Giáo dục


Viện Toán ở Canada vinh danh giáo sư Ngô Bảo Châu

Posted: 18 Oct 2012 01:54 AM PDT

Từ ngày 15-18/10 tại thành phố Toronto của Canada, Viện Fields – viện nghiên cứu khoa học toán thuộc trường Đại học Toronto tổ chức hội nghị chuyên đề để vinh danh Giáo sư Ngô Bảo Châu.

Hội nghị chuyên đề "Nguyên tắc cơ bản của chương trình Langlands" tập trung vào công trình của Giáo sư Ngô Bảo Châu và các ảnh hưởng hiện tại cũng như lâu dài của công trình. Mục đích của hội nghị là giúp những người yêu toán nói riêng và dư luận nói chung hiểu rõ hơn về các dạng đẳng cấu và chương trình Langlands, cũng như giới thiệu sự phát triển gần đây, tổng kết những thành tựu mới nhất trong lĩnh vực liên quan đến công trình của Giáo sư Ngô Bảo Châu.

Hội nghị hướng đến đông đảo công chúng, gồm các sinh viên, các nhà toán học thuộc các lĩnh vực nghiên cứu khác với Giáo sư Ngô Bảo Châu và những nhà khoa học mà toán học đóng một vai trò quan trọng trong công trình nghiên cứu của họ.


Giáo sư Ngô Bảo Châu tại hội nghị.

Lễ khai mạc Hội nghị chuyên đề vinh danh Giáo sư Ngô Bảo Châu đã diễn ra trang trọng tối 15/10, với sự tham dự của Chủ tịch Liên minh Toán học quốc tế, bà Ingrid Daubechies, Đại sứ Việt Nam tại Canada Lê Sỹ Vương Hà, Bộ trưởng phụ trách Đào tạo, cao đẳng và đại học tỉnh Ontario Glen Murray, nhà lãnh đạo đảng Tự do Bob Rae, Giám đốc Viện Fields Edward Bierstone, nhà toán học nổi tiếng James Arthur thuộc Đại học Toronto, cùng khoảng 300 khách mời.

Phát biểu tại lễ khai mạc, Đại sứ Lê Sỹ Vương Hà đã ca ngợi những đóng góp của Canada nói chung, Viện Fields và Huy chương Fields nói riêng trong lĩnh vực toán học và phát triển của thế giới. Đại sứ rất tự hào được có mặt tại một hội nghị để vinh danh Giáo sư Ngô Bảo Châu, người có những đóng góp lớn vào sự nghiệp giáo dục và nghiên cứu toán học tại Việt Nam.

Đại sứ Lê Sỹ Vương Hà hy vọng rằng Huy chương Fields của Giáo sư Ngô Bảo Châu và việc Giáo sư được tổ chức hội nghị chuyên đề để vinh danh tại Viện Fields sẽ là một cầu nối hữu nghị nữa giữa Canada và Việt Nam, khi hai nước đang hướng đến kỷ niệm 40 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 2013.

Tại hội nghị chuyên đề kéo dài 4 ngày này, Giáo sư Ngô Bảo Châu có hai bài giảng. Ngoài việc trình bày “Bổ đề cơ bản” trong tối khai mạc, Giáo sư Ngô Bảo Châu còn có bài giảng về những công trình nghiên cứu có cảm hứng từ chương trình “Bên ngoài phép nội soi” của Langlands vào ngày 17/10.

Trả lời phỏng vấn của phóng viên TTXVN, Giáo sư Ngô Bảo Châu nhấn mạnh về những đóng góp của trí thức trẻ đối với đất nước khi nói Việt Nam hiện là nước nông nghiệp, đang rất cần tri thức, những kiến thức về khoa học và công nghệ để phát triển đất nước. Các trí thức trẻ, nhất là những người có cơ hội tiếp thu những kiến thức khoa học và công nghệ mới nhất ở nước ngoài, có thể đóng góp rất nhiều vào sự nghiệp xây dựng đất nước.

Theo Giáo sư Ngô Bảo Châu, không phải ai cũng có khả năng để đạt giải Nobel hay Fields, nhưng ai cũng có thể sống để cuộc sống của mình có ý nghĩa.

Viện Fields là một trung tâm nghiên cứu toán quốc tế thuộc Đại học Toronto, ra đời năm 1992. Viện được đặt tên theo nhà toán học John Charles Fields của Đại học Toronto, người sáng lập Huy chương Fields trong lĩnh vực toán học, được xem như giải thưởng Nobel dành cho toán học. Huy chương Fields bắt đầu được Liên minh Toán học quốc tế trao từ năm 1936, bốn năm một lần.

Hội nghị chuyên đề năm nay nằm trong chương trình kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Viện Fields và là hội nghị đầu tiên mà viện dự kiến tổ chức hàng năm nhằm vinh danh và giới thiệu các nhà toán học đã giành được Huy chương Fields gần đây.

Theo TTXVN

Nguồn: http://dantri.com.vn/c25/s25-652304/vien-toan-o-canada-vinh-danh-giao-su-ngo-bao-chau.htm

Tranh cãi trường chuẩn chất lượng cao

Posted: 18 Oct 2012 01:53 AM PDT

- Không đợi chờ tiêu chuẩn về giáo dục chất lượng cao (CLC), các trường học đều nỗ lực nâng cao trình độ giáo viên và cơ sở vật chất hay bồi dưỡng HS giỏi. Tuy nhiên, lãnh đạo các trường đều khá thận trọng trước dự thảo thông tư quy định về học phí chất lượng CLC.

Để không phân biệt đối xử

Dự thảo thông tư quy định về học phí CLC của Bộ  GD-ĐT nếu được áp dụng sẽ giúp các trường nâng chất lượng giáo dục và cải thiện đời sống cho giáo viên. Tuy nhiên, lãnh đạo các trường đón nhận thông tin này với thái độ hết sức thận trọng và không ít băn khoăn.

THCS Cầu Giấy (quận Cầu Giấy, Hà Nội) là ngôi trường thực hiện Đề án thí điểm đào tạo trình độ cao, chất lượng cao đã được UBND thành phố phê duyệt. (Ảnh: Văn Chung)

Theo ý kiến của hiệu trưởng Trường TH Thành Công B (quận Ba Đình, Hà Nội) Phạm Thị Yến: "Ngoài yêu cầu chuẩn giáo viên, trường CLC phải có cơ sở vật chất tốt, tăng cường dạy ngoại ngữ, ít học sinh"

"Nhiều phụ huynh có điều kiện sẵn sàng trả thêm tiền để con học trong môi trường tốt hơn. Nếu dịch vụ CLC vào đương nhiên cả phụ huynh, HS và nhà trường đều có lợi" – bà Yến chia sẻ.

Xét các tiêu chí của dự thảo trường đã đáp ứng được chuẩn về giáo viên khi 100% đội ngũ quản lí, giáo viên đều đạt trên chuẩn. 85% có bằng đại học, có người có bằng thạc sĩ, cơ sở vật chất tốt (cả trường đã áp dụng mô hình lớp học tương tác).

Tuy nhiên, trường khó đạt "chuẩn CLC" bởi phải thực hiện nhiệm vụ "giáo dục toàn dân", mỗi lớp học khá đông (khoảng 50 em). Nếu muốn giãn học sinh phải mở thêm lớp, tăng biên chế giáo viên.

Còn nhiều băn khoăn, tranh cãi xung quanh dự thảo Thông tư quy định về học phí CLC.
(Ảnh minh họa. Ảnh: Văn Chung)

Một điều khiến bà Yến lo ngại: "Nếu thực hiện dịch vụ cho một nhóm HS dễ dẫn tới suy nghĩ bị đối xử thiếu công bằng cho trẻ ngay trong một trường".

Hiệu trưởng Trường TH Xuân Đỉnh (huyện Từ Liêm, Hà Nội) Nguyễn Thị Bích Hằng lại ủng hộ với việc có thể mở dịch vụ cho một nhóm HS gia đình có điều kiện và có nhu cầu.

Hiện tại, trường này đã thực hiện dạy tiếng Anh trên máy vi tính cho học trò.

Theo bà Hằng lớp học tương tác hay mô hình học tiếng Anh trên vi tính là một phần không thể thiếu trong dịch vụ giáo dục chất lượng cao.

Song, khó khăn về bố trí lớp học và số học sinh/lớp ít là điều khiến bà Hằng, bà Yến và nhiều lãnh đạo nhà trường tại Hà Nội đau đầu bởi quỹ đất cho trường hạn hẹp trong khi số trẻ đến tuổi tới trường tăng nhanh.

Cùng với khối THCS của Trường THPT Chuyên Hà Nội – Amsterdam, đây cũng là năm thứ 2 Trường THCS Cầu Giấy (quận Cầu Giấy, Hà Nội) thực hiện Đề án thí điểm đào tạo trình độ cao, chất lượng cao đã được UBND thành phố phê duyệt.

Tuy nhiên, do từ trước tới nay Bộ GD-ĐT chưa có văn bản nào nói về trường hay dịch vụ CLC nên hiện nay sĩ số HS/lớp của trường cũng khoảng 40 em. Nếu muốn được công nhận đào tạo CLC theo hiệu trưởng Dương Văn Tiến: "Trường cũng cần giãn học sinh, cân bằng sĩ số bằng cách tuyển ít hơn vào năm sau".

Chia sẻ với lo ngại dịch vụ CLC cho nhóm HS có thể gây suy nghĩ phân biệt trẻ ngay trong một trường, ông Tiến cho rằng: "Vấn đề là giải quyết nhận thức cho mọi người hiểu và ủng hộ. Không có chuyện vì đào tạo dịch vụ CLC mà đối xử phân biệt với các em còn lại".

Vị hiệu trưởng nhấn mạnh: "Không thể vì tư tưởng cào bằng mà kéo nhau về lạc hậu. Hơn nữa đây là nhu cầu của phụ huynh và cũng tạo điều kiện cho công tác xã hội hóa giáo dục".

Mập mờ tiêu chí?

 

Hiệu trưởng Hằng bày tỏ nhiều băn khoăn với dự thảo dịch vụ CLC ở quy định "các khoản thu trên cơ sở thỏa thuận và tự nguyện của gia đình học sinh" và việc trường cam kết thực hiện "chất lượng giáo dục cao hơn với mức độ hiện tại".

Lớp học với hệ thống bảng tương tác có giá hơn 160 triệu đồng của Trường TH Nguyễn Trãi (quận Thanh Xuân, Hà Nội). (Ảnh: Châu Giang).

Theo bà Hằng: "Các khoản thu nên có văn bản hướng dẫn cụ thể để phụ huynh và trường cùng nắm rõ, tránh hiểu lầm dẫn tới bức xúc của phụ huynh. Bộ hay Sở GD-ĐT cũng cần đưa ra những chuẩn cụ thể về các tiêu chí để trường được công nhận đào tạo CLC, không nên mập mờ như dự thảo".

Cùng chung lo lắng, Hiệu trưởng Trường THPT DL Đinh Tiên Hoàng Nguyễn Tùng Lâm đề xuất về một "hội đồng giám sát độc lập" nhằm kiểm tra chất lượng giáo dục ở các cơ sở đào tạo dịch vụ CLC.

Tuy nhiên, Hiệu trưởng Trường TH Xuân Đỉnh Nguyễn Thị Bích Hằng cho rằng: "Không phải ai cũng có đủ chuyên môn và tâm huyết để làm việc "vác tù và" này. Cơ chế hoạt động của hội đồng nếu không chặt chẽ có thể sẽ gây khó khăn cho việc dạy và học trong nhà trường".

Về xác định tiêu chí, tiêu chuẩn CLC ông Tiến cho rằng: "Mỗi địa phương, vùng miền điều kiện khác nhau nên Bộ GD-ĐT không thể ra chuẩn chung. Với Hà Nội, trí thức cao sẽ đòi hỏi cao hơn là ở vùng như Sơn La, Lai Châu,.. Do đó mới ủy quyền cho các tỉnh thành yêu cầu làm chặt, làm nghiêm và hợp lý.

Tương tự, từ tính toán các điều kiện mà mỗi địa phương đề ra các cơ sở về thu chi và tài chính cho phù hợp. Các ngành từ: Giáo dục, Nội vụ, Tài chính,…đều bắt tay vào làm các khâu từ thẩm định, ra quyết định, tổ chức thực hiện đến thanh- kiểm tra. Như vậy là khá chặt chẽ.

Trường CLC được thu cao?

Đối chiếu với các điều kiện trong dự thảo, có lẽ Trường THCS Cầu Giấy sẽ sớm được công nhận đào tạo dịch vụ CLC. Do là công trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội nên cơ sở vật chất của trường này khá khang trang. Trường thi tuyển và tuyển sinh ít.

Hiệu trưởng Dương Văn Tiến thông tin: đề xuất mức thu học phí 600.000 đồng/HS/tháng của trường chưa được thông qua. HS hiện chỉ phải đóng mức 40.000 đồng/HS/tháng, chi phí còn lại vẫn do ngân sách cấp.

Đội ngũ quản lí và giáo viên của trường đều đạt trên chuẩn: 100% GV đều là những người được công nhận là dạy giỏi, có trình độ ĐH và trên đại học, 30% có bằng thạc sĩ.

Trường có GV nước ngoài giảng dạy tiếng Anh, mỗi lớp học 4 tiết/tuần và dự tính mở 2 lớp song ngữ các môn Toán, Hóa, Sinh. Trường cũng có liên kết với một trường quốc tế làm kênh để học sinh có thể đi du học sau khi tốt nghiệp.

Việc Bộ GD-ĐT có chủ trương quy định về học phí chất lượng giáo dục cao đi kèm với yêu cầu về chất lượng thực sự là điều hiệu trưởng Tiến và các GV trong trường mong mỏi.

Ông Tiến phân tích: "Khác với trường chuyên, mô hình đào tạo CLC giúp HS phát triển toàn diện, đặc biệt là khả năng hội nhập quốc tế và vốn tiếng Anh tốt. Nhiều trường dân lập hiện nay thu phí cao nhưng lại đào tạo mập mờ, nhất là chất lượng GV tiếng Anh. Trong khi trường công lập từ chương trình dạy đến GV quản lí rất chặt, chất lượng đảm bảo. Nếu áp dụng trên diện rộng, phụ huynh sẽ có thêm lựa chọn tốt khi gửi con tới trường".


  • Văn Chung

Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/93042/tranh-ca-i-truong-chuan-chat-luong-cao.html

Học bổng Úc mang tên cô gái gốc Việt

Posted: 18 Oct 2012 01:53 AM PDT

Ngọc Trâm là một người Việt đến Sydney khi còn là một đứa trẻ. Trâm lớn lên trong xã hội đen tại Cabramatta với ma túy và tội phạm. Cơ duyên đã đến với cô khi cô gặp giáo sư David Dixon, trưởng khoa Luật khi ông tiến hành một nghiên cứu về cảnh sát ở Cabramatta. Ông nhận ra rằng Trâm là một cô gái đặc biệt. Mặc dù cô không được học hành tử tế nhưng năng lực và trí tuệ của cô ngang bằng với những học sinh ưu tú, tài năng tại trường Luật.

Trâm trở thành trợ lý nghiên cứu của dự án và là đồng tác giả trong đề tài: "Anh Hai: Nhận thức và trải nghiệm của cộng đồng người gốc Á về cảnh sát." Với sự động viên, khuyến khích của giáo sư David Dixon, Trâm đăng ký vào học tại trường Luật, Đại học New South Wales (UNSW).

Mơ ước của Trâm là trở thành luật sư và người lãnh đạo cộng đồng để giúp đỡ cho bạn bè và cộng đồng của mình. Tuy nhiên, cô chưa thể hoàn thành tâm nguyện của mình. Trâm mất trong một tai nạn ô tô.

Năm 2011, Giáo sư Dixon thành lập một quĩ học bổng mang tên Nguyễn Ngọc Trâm dành cho những người gặp khó khăn như Trâm để họ đạt được những gì họ mong muốn tại trường Luật, UNSW.


Nguyễn Ngọc Trâm - Học bổng vì nghị lực và vươn lên của những sinh viên gặp khó khăn về kinh tế.

Trong hơn một năm qua, học bổng đã quyên góp được 125.000 đô-la Úc từ hơn 100 cựu sinh viên, các hãng luật và giảng viên tại trường Luật dành cho một sinh viên trong suốt 5 năm học. Người may mắn được học bổng Nguyễn Ngọc Trâm đầu tiên là Victor Lâm. Victor đã hoàn thành chương trình trung học tại trường Busby High, một trường nằm trong chương trình Hỗ trợ các trường gặp nhiều khó khăn (PSFP). Cha mẹ Victor cũng là những người tị nạn đến Úc sau chiến tranh.

Victor chia sẻ: "Học bổng Nguyễn Ngọc Trâm đã đem đến cho những người gặp khó khăn như cậu không bị ngắt quãng việc học hành vì những khó khăn trong cuộc sống. Đó làm một minh chứng rằng làm việc chăm chỉ và siêng năng sẽ được công nhận."

Victor cho biết thêm: "Học bổng chứng tỏ cho gia đình tôi và những người khác trong cộng đồng biết rằng giáo dục tạo cho mọi người nhiều cơ hội hơn. Học bổng đã giúp tôi dành nhiều thời gian để nghiên cứu, để tham gia vào các thảo luận và hy vọng được làm thực tập viên tại Trung tâm Luật Kingsford. Gặp gỡ nhiều người đã từng được học bổng khác cũng là một động lực để tôi cố gắng hơn."

Theo Radio Australia

Nguồn: http://dantri.com.vn/c25/s25-652678/hoc-bong-uc-mang-ten-co-gai-goc-viet.htm

Thông báo tuyển dụng cán bộ công chức bổ sung năm 2012

Posted: 18 Oct 2012 01:53 AM PDT

 

(GDTĐ) – Căn cứ chỉ tiêu được giao và nhu cầu bổ sung cán bộ, công chức làm việc tại các phòng chức năng thuộc Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý cơ sở giáo dục (gọi tắt là Cục Nhà giáo), Cục Nhà giáo thông báo chỉ tiêu, vị trí và yêu cầu cần tuyển bổ sung cán bộ, công chức năm 2012 như sau:

1. Số lượng cần tuyển: 04 cán bộ công chức

2. Mô tả vị trí và yêu cầu

2.1.Vị trí 1:

Tuyển 01 cán bộ phụ trách công tác phát triển đội ngũ CBQL khối ĐH, CĐ, TCCN, với các yêu cầu sau:

-Trình độ: từ thạc sĩ trở lên (ưu tiên bằng thạc sĩ quản lý giáo dục);

-Độ tuổi: Nam 50 tuổi trở xuống, nữ 45 tuổi trở xuống;

- Thâm niên công tác: đã công tác trong ngành giáo dục từ 5 năm trở lên; đã và đang giữ chức vụ CBQL cấp khoa trở lên của trường ĐH, CĐ và TCCN.

2.2.Vị trí 2:

Tuyển 01 cán bộ phụ trách phát triển đội ngũ CBQL của cấp THPT, THCS và trung tâm GDTX với các yêu cầu sau:

-Trình độ: từ thạc sĩ trở lên (ưu tiên bằng thạc sĩ quản lý giáo dục);

-Độ tuổi: Nam 50 tuổi trở xuống, nữ 45 tuổi trở xuống;

- Thâm niên công tác: đã công tác trong ngành giáo dục từ 5 năm trở lên, đang công tác tại các Sở GDĐT, phòng GDĐT; CBQL (từ tổ trưởng chuyên môn trở lên) của trường THPT, THCS và trung tâm GDTX.

2.3.Vị trí 3:

Tuyển 01 chuyên viên phụ trách công tác phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học, cao đẳng sư phạm với các yêu cầu sau:

- Trình độ:  từ thạc sĩ trở lên; bằng tốt nghiệp đại học từ loại Khá trở lên; đại học và thạc sĩ đều thuộc hệ chính quy tập trung;

-Độ tuổi: Nam 45 tuổi trở xuống, nữ 40 tuổi trở xuống;

- Thâm niên công tác: đã giảng dạy trường đại học, cao đẳng từ 5 năm trở lên; ưu tiên những người đã tham gia công tác quản lí từ cấp khoa, phòng trở lên.

2.4.Vị trí 4:

Tuyển 01 chuyên viên phụ trách công tác phát triển đội ngũ giảng viên khối các trường đại học, cao đẳng ngoài sư phạm với các yêu cầu sau:

- Trình độ: từ thạc sĩ trở lên; bằng tốt nghiệp đại học từ loại Khá trở lên; đại học và thạc sĩ đều thuộc hệ chính quy tập trung;

-Độ tuổi: Nam 45 tuổi trở xuống, nữ 40 tuổi trở xuống;

- Thâm niên công tác: đã giảng dạy trường đại học, cao đẳng từ 5 năm trở lên; ưu tiên những người đã tham gia công tác quản lí từ cấp khoa, phòng trở lên.

3. Hồ sơ đăng ký dự sơ tuyển gồm:

3.1 Đơn đăng ký dự tuyển (theo mẫu tại phụ lục 01 của thông tư số 13/2010/TT-BNV ngày 30/12/2010 của Bộ Nội vụ)

3.2   Sơ yếu lý lịch (mẫu sơ yếu lý lịch 2C-BNV-2008);

3.3   Bản sao giấy khai sinh;

3.4   Giấy khám sức khỏe;

3.5 Bản tự nhận xét, đánh giá quá trình công tác có xác nhận của thủ trưởngđơn vị;

3.6 Bản sao văn bằng tốt nghiệp đại học, thạc sĩ, tiến sĩ, các chứng chỉ (nếu có) và thành tích được công nhận (Bằng khen, Huân huy chương…).

4. Thời gian nộp hồ sơ: Từ ngày 11/10/2012 đến hết ngày 30/11/2012

5. Địa điểm nhận hồ sơ:

Văn phòng Cục Nhà giáo, địa chỉ: Phòng 104, tòa nhà 8C, ngõ 30 Tạ Quang Bửu, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Điện thoại liên hệ: 0436.230.503; 0436.623.0603.

Văn bản này được thông báo công khai trên Báo Giáo dục và Thời đại và đăng trên Website http://gdtd.vn của Báo Giáo dục và Thời đại, Website: http://srem.com.vn của Dự án Hỗ trợ Đổi mới Quản lý Giáo dục-SREM và niêm yết tại Văn phòng Cục Nhà giáo.

          Trân trọng thông báo.

CỤC TRƯỞNG

Hoàng Đức Minh

 

Nguồn: http://gdtd.vn/channel/3161/201210/Thong-bao-tuyen-dung-can-bo-cong-chuc-bo-sung-nam-2012-1964219/

Bài 2: Đầu vào lệch chuẩn, đầu ra thả nổi

Posted: 18 Oct 2012 01:52 AM PDT

Thực trạng khó khăn về cơ sở vật chất đề cập trong bài trước chưa đủ lý giải vì sao chất lượng đào tạo y khoa giảm sút. Theo nhiều nhà chuyên môn, chuẩn mực đào tạo y khoa đang có vấn đề, bởi nếu không thì không thể lý giải tại sao đầu vào trường y là những người ưu tú của trường phổ thông (đạt điểm cao ngất ngưởng trong thi tuyển), nhưng khi ra trường lại là những… sản phẩm trung bình của trường đại học.

Sinh viên y khoa đại học Y dược TP.HCM tham gia Càphê khoa học, một hoạt động nhằm kích thích tinh thần tranh luận và tư duy sáng tạo.

Chuẩn đầu vào chưa chính xác

Hỏi B., sinh viên y khoa năm thứ 5, khi em đang thực tập tại bệnh viện Nhân dân 115 TP.HCM, vì sao chọn học ngành y, em trả lời: "Đó là một nghề kiếm ra tiền và được xã hội tôn trọng. Thật tình em chọn học là như thế chứ không lý tưởng gì đâu". B. không phải cá biệt. Một giảng viên đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch cho biết hàng năm trường cũng thăm dò ý kiến sinh viên về động cơ học y khoa, nhìn chung các em chọn học vì truyền thống gia đình, theo gợi ý của người thân, bè bạn hoặc muốn kiếm được nhiều tiền và nổi tiếng.

Theo BS Đỗ Hồng Ngọc, chủ nhiệm bộ môn khoa học hành vi – giáo dục sức khoẻ đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, cách tuyển chọn người học y khoa chỉ dựa vào điểm thi như hiện nay không đánh giá được toàn diện con người sinh viên học y. Ông phân tích: "Thi đại học y chỉ cần ba môn toán, hoá và sinh. Nhưng theo tôi cần phải thi thêm ngoại ngữ và làm một bài tự luận với một câu hỏi mở chẳng hạn như "vì sao chọn con đường làm nghề y?", và nếu cần cũng phải qua một vòng phỏng vấn để qua đó biết được người học có thể trở thành một bác sĩ tốt sau này hay không". Ông Ngọc cho biết, thời ông vào học y khoa nửa thế kỷ trước, tuy không phải làm bài tự luận hay phỏng vấn nhưng thi bốn môn lý, hoá, sinh, ngoại ngữ, và trả lời 20 câu hỏi về kiến thức xã hội tổng quát. "Một bác sĩ giỏi cũng phải là người có kiến thức văn hoá rộng, hiểu về lịch sử, địa lý, âm nhạc, văn học… và biết quan tâm đến cuộc sống con người, nếu không thì họ chỉ là những thợ mổ hay thợ chữa bệnh".

Đề nghị tuyển chọn đầu vào học y khoa của BS Đỗ Hồng Ngọc đã được nhiều nước tiên tiến trên thế giới áp dụng, nhưng các trường nước ta chưa mặn mà hoặc không được trao quyền để tuyển chọn những người học xứng đáng.

BS Nguyễn Minh Trí Viên, viện Tim TP.HCM, cũng cho rằng cần có một chuẩn đầu vào phù hợp với ngành y. "Học y khoa phải có tinh thần "sinh ra để phục vụ" thì mới theo đuổi được ngành này và trở thành một thầy thuốc tốt", ông nói.

Chuẩn đầu ra chưa có

Trong khi đại học y khoa nước ta chưa có được chuẩn đầu vào như nước ngoài, thì chuẩn đầu ra nhiều trường còn chưa xây dựng được.

TS Thái Hồng Hà, trưởng phòng quản lý đào tạo đại học Phạm Ngọc Thạch, cho biết cách đây hai năm trường mới ban hành chính thức chuẩn đầu ra cho sinh viên. Trước đó cũng có nhưng chỉ nhà trường và sinh viên… hiểu ngầm với nhau! Đại học Y dược TP.HCM lại khác, năm qua trường mới tổ chức cho một nhóm cán bộ chủ chốt đi tham quan vài đại học y khoa tiên tiến của thế giới để về xây dựng chuẩn đào tạo đầu ra.

Vì mục tiêu gì?

Thực trạng quá tải bệnh viện và thiếu hụt
bác sĩ hiện nay ở TP.HCM được xem là hậu quả của sai lầm về chiến lược
đầu tư con người. Trong khi lẽ ra phải củng cố thật chắc hệ thống y tế
cơ sở bằng nhân lực giỏi để bệnh nhân không chạy lên tuyến trên, thì
người ta làm ngược lại. Bằng chứng là hàng chục năm qua bác sĩ ra trường
từ đại học Phạm Ngọc Thạch có điểm cao được ưu tiên về bệnh viện làm
việc, dù thế mạnh của những người này là "hướng về cộng đồng", trong khi
bác sĩ có điểm thấp phải về tuyến cơ sở làm việc. Phần lớn bác sĩ về
tuyến dưới đều bỏ việc vì thu nhập thấp, không có điều kiện phát triển
tay nghề và thăng tiến nghề nghiệp. Thiếu bác sĩ là đương nhiên.

Theo một nhà giáo dục y khoa, cách đào tạo y khoa nước ta hiện nay là chỉ tập trung trong bệnh viện, sinh viên học về bệnh và luân phiên đi thực tập các khoa phòng chứ không được học khám ngoại trú, và không biết gì những vấn đề sức khoẻ của cộng đồng bên ngoài nên khi ra trường họ không đáp ứng được yêu cầu làm việc. Hỏi TS Thái Hồng Hà liệu có độ vênh nào giữa đào tạo và thực tế bên ngoài hay không, ông trả lời: "Để trả lời cần phải nghiên cứu, nhưng cho đến nay chưa ai làm điều này. Nếu nghiên cứu được thì rất tốt, vì nếu có độ vênh nhà trường phải điều chỉnh lại chuẩn đầu ra cho phù hợp nhu cầu của xã hội".

Giảng viên chưa được đãi ngộ tương xứng

Thực trạng đào tạo y khoa hiện nay không tách rời vai trò của giảng viên. Trao đổi với người viết, nhiều người trong số họ băn khoăn về cuộc sống vật chất so với những đồng nghiệp làm việc ở bệnh viện. Một tiến sĩ biên chế đại học Y dược TP.HCM cho biết thu nhập của ông chỉ tròm trèm 3 triệu đồng/tháng, trong khi nếu là biên chế của bệnh viện ông được gấp đôi. Thu nhập thấp, nên không ít giảng viên đại học y khoa phải cải thiện cuộc sống bằng nhiều hình thức khác nhau, từ tranh thủ mổ dịch vụ cho đến đi báo cáo cho các hãng dược. "Mỗi bài báo cáo được trả 5 – 10 triệu đồng, chứ trông vào đồng lương giảng dạy thì không thể sống được", một tiến sĩ ngành tim mạch chia sẻ.

Giảng viên không chuyên tâm vào giảng dạy, sinh viên bơ vơ khi học là điều đương nhiên. X., sinh viên y khoa năm thứ 5, nói mặc dù trên nguyên tắc sinh viên thực tập ở bệnh viện phải có giảng viên đi theo, nhưng nhiều hôm em và các bạn phải "học chay" vì giảng viên vắng mặt hoặc đi trễ về sớm.

Theo BS Đỗ Hồng Ngọc, trong đào tạo y khoa, thực hành là chuyện rất quan trọng vì thế cần phải có những người chuyên dạy thực hành ở bệnh viện và trả lương thật cao để họ tâm huyết giảng dạy. Éo le thay, ở nước ta thực hành y khoa lại không được đánh giá cao bằng lý thuyết, vì một giờ giảng lâm sàng chỉ được tính công bằng… nửa giờ dạy trên lớp!

(Theo Sài gòn Tiếp thị)

Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/93088/bai-2--dau-vao-lech-chuan--dau-ra-tha-noi.html

Úc dạy lịch sử chiến tranh Việt Nam cho học sinh mẫu giáo

Posted: 18 Oct 2012 01:52 AM PDT

Chủ tịch Hiệp hội Giáo viên Lịch sử bang New South Wales, ông Bernie Howitt, cho hay trước đó giáo trình quốc gia mới cho môn lich sử đã bỏ qua nội dung về cuộc chiến tranh ở Việt Nam, coi đây như một nội dung tham khảo. Tuy nhiên, nội dung này đã được đề cập trong chương trình học lịch sử tại bang NSW. Giáo trình này được ban hành hôm 16/10 như một tài liệu học tập.

"Đây là một tài liệu giáo dục mà các giáo viên có thể giảng dạy. Nó cho phép chúng ta dễ dàng tổng hợp toàn bộ nội dung về lịch sử quốc gia vào năm cuối của trẻ 10 tuổi."

Tương tự, Eva Gold, một cán bộ quản lý của Hiệp hội Giáo viên Tiếng Anh bang New South Wales cũng rất hài lòng với giáo trình học tiếng Anh mới của bang. Bà cho biết giáo trình này cập nhật hơn trong cách tiếp cận so với giáo trình quốc gia.

Bà Gold cũng cho biết thêm rằng giáo trình Tiếng Anh quốc gia do Cục Báo cáo và Đánh giá Giáo trình Úc sản xuất có nội dung chắp vá ở một số phần. Tuy nhiên, Uỷ ban Nghiên cứu bang NSW đã khắc phục những khiếm khuyết này.

"Tôi cho rằng ủy ban đã làm một việc rất hữu ích," bà nói.

Nguồn: http://dantri.com.vn/c25/s25-652706/uc-day-lich-su-chien-tranh-viet-nam-cho-hoc-sinh-mau-giao.htm

Ban hành quy định đào tạo tiến sĩ theo Đề án 911

Posted: 17 Oct 2012 04:12 PM PDT

(GDTĐ)-Thứ trưởng Bộ GDĐT Bùi Văn Ga vừa ký ban hành quy định đào tạo trình độ tiến sĩ theo Đề án "Đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường ĐH, CĐ giai đoạn 2010-2020" (Đề án 911), có hiệu lực kể từ ngày 26/11/2012. Thời gian thực hiện tuyển sinh đến hết năm 2020.

Theo đó, với 3 phương thức đào tạo: đào tạo ở nước ngoài, đào tạo ở trong nước và đào tạo theo phương thức phối hợp, đối tượng tuyển sinh quy định là giảng viên biên chế, giảng viên hợp đồng làm việc xác định thời hạn hoặc không xác định thời hạn của các trường; người mới tốt nghiệp đại học hoặc thạc sĩ (trong vòng 12 tháng tính đến ngày dự tuyển); nghiên cứu viên đang làm việc tại các Viện nghiên cứu khoa học; những người có năng lực và chuyên môn giỏi đang làm việc tại các đơn vị ngoài nhà trường. Tuổi không quá 45 tuổi tính theo năm đăng ký dự tuyển.

Ngoài ra, mỗi phương thức đào tạo sẽ có những quy định cụ thể cho ứng viên dự tuyển (về văn bằng, ngành học, trình độ ngoại ngữ, cơ quan tiếp nhận…)

Những ứng viên trúng tuyển chưa đủ trình độ ngoại ngữ, những người chuẩn bị đi học nước ngoài chưa dự các lớp bồi dưỡng kiến thức định hướng phải trải qua khóa đào tạo tiền tiến sĩ được thực hiện trong thời gian tối đa 9 tháng theo hình thức tập trung.

Nghiên cứu sinh sẽ được cấp học bổng và chi phí đào tạo; được trường cử đi đào tạo tạo điều kiện, bố trí thời gian để thực hiện chương trình đào tạo theo quy định và được tiếp nhận trở lại làm việc hoặc tuyển dụng làm giảng viên sau khi tốt nghiệp theo đúng chuyên môn được đào tạo. NCS không phải bồi hoàn học bổng và chi phí đào tạo nếu trường không tiếp nhận trở lại làm việc hoặc không tuyển dụng chính thức làm giảng viên.

Cùng với quyền hạn trên, nghiên cứu sinh có nghĩa vụ trở về phục vụ tại trường đã cử đi đào tạo sau khi tốt nghiệp, thời gian tối thiểu phục vụ tại trường thực hiện theo quy định hiện hành của Nhà nước; bồi hoàn học bổng và chi phí đào tạo nếu không hoàn thành chương trình đào tạo (trừ lý do bất khả kháng), hoặc đã tốt nghiệp nhưng không phục vụ đủ thời gian làm việc quy định.

Lập Phương

Nguồn: http://gdtd.vn/channel/3005/201210/Ban-hanh-quy-dinh-dao-tao-tien-si-theo-De-an-911-1964209/

Cần một nền giáo dục khai sáng

Posted: 17 Oct 2012 04:12 PM PDT

Diễn đàn "Đổi mới giáo dục – đòi hỏi cấp thiết"

Cần một nền giáo dục khai sáng

TT – Đối với từng cá nhân trong xã hội, sứ mệnh của giáo dục là gì, mang những nội dung nào?

Sinh viên Trường ĐH Khoa học tự nhiên (ĐH Quốc gia TP.HCM) trong phòng thí nghiệm – Ảnh: NHƯ HÙNG

Khai sáng – đó chính là sứ mệnh thiêng liêng của giáo dục đối với con người. Khai sáng được hiểu là khơi nguồn, tạo điều kiện ban đầu để con người nhận diện và biết cách khai thác, phát huy các tiềm năng vốn có của mình mà tận dụng các cơ hội trong cuộc sống.

Đó còn là tạo đà cho con người phát triển bền vững theo nhu cầu phát triển không ngừng của xã hội, phát triển phù hợp với năng lực và thiên hướng của mình. Khai sáng là thuộc tính của mọi nền giáo dục chân chính.

Cung cấp những hiểu biết cơ bản, thiết thực

Hiểu biết cơ bản được hiểu là kiến thức nền móng mà không có thì con người không thể tiếp thu được những kiến thức bổ ích khác tiếp theo, không phát triển tiếp được. Hiểu biết thiết thực với nhu cầu thời đại là loại hiểu biết mà nếu thiếu chúng thì con người trở thành kẻ lạc lõng trong thời đại mình đang sống, không sống cuộc sống bình thường của người lao động, của một thành viên trong gia đình và xã hội, không thành người theo đúng nghĩa con người.

Nước ta đang rất cần một cuộc đổi mới căn bản và triệt để trong cách suy nghĩ về giáo dục, chuyển từ nền giáo dục nặng về nhồi nhét áp đặt, làm mụ mẫm đầu óc sang nền giáo dục "đảm bảo cho học trò những kiến thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế" như Bác Hồ từng căn dặn.

Kiến thức loài người trong cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện nay đang tăng vô hạn theo cấp số nhân còn đời người thì hữu hạn. Thách thức này trong thời gian vừa qua khiến giáo dục đã bị quay cuồng trong cơn lốc dạy chữ. Những khiếm khuyết về đạo đức, nhân cách của con người VN lâu nay bị xã hội kêu ca và lên án đã bộc lộ rõ lỗ hổng to lớn của giáo dục trong việc dạy kiến thức làm người – một con người lương thiện, trung thực trong lao động và ứng xử, một thành viên có trách nhiệm của gia đình và xã hội, biết cái gì là đẹp, là thiện. Đây mới chính là kiến thức cơ bản và thiết thực hàng đầu mà xã hội hiện nay, thời đại hiện nay đang có nhu cầu nhưng giáo dục VN lại đang coi nhẹ. Loại kiến thức này còn quan trọng hơn cả kiến thức từng môn học cụ thể, kiến thức về tin học, ngoại ngữ hay chính trị. Giáo dục VN còn nhiều việc phải làm để người học không chỉ biết cái gì là đúng sai mà còn có thái độ, niềm tin, hành xử đúng đắn trước các sự vật, hiện tượng của đời sống.

Tư duy độc lập

Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo đòi hỏi nhà trường giúp người học biết tư duy độc lập, khuyến khích họ dám tư duy độc lập, không sợ sai, không sợ trái "bài văn mẫu".

Người học được khai sáng sẽ thành con người tiếp thu chân lý khoa học một cách chủ động, có phê phán, là con người dám hoài nghi khoa học để tìm kiếm chân lý, tìm ra cách nhìn nhận, đánh giá mới về một sự vật, hiện tượng cũ hay quyết tâm đẩy lùi thêm giới hạn của sự chưa hiểu biết; là con người biết đặt câu hỏi, lấy đó làm xuất phát điểm của con đường tìm kiếm chân lý. Mọi nền khoa học sẽ trở nên tù đọng, đứng yên rồi chết yểu nếu không có hoài nghi khoa học. Tư duy rập khuôn tạo ra con người thụ động, dựa dẫm. Đó là biểu hiện của con người chưa trưởng thành về mặt nhận thức.

Tư duy độc lập tạo ra con người và rộng hơn nữa là tạo nên một xã hội dám chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình, dám dấn thân vì sự lựa chọn ấy. Tư duy độc lập được hình thành vững chắc, không chấp nhận giới hạn bất biến của chân lý cũ, đó chính là sản phẩm phải có của nền giáo dục khai sáng. Khuyến khích tư duy độc lập, đó phải xem là khâu đột phá trong đổi mới toàn diện và căn bản giáo dục – đào tạo của VN ở nhiều thập kỷ tới.

TS HỒ THIỆU HÙNG

Nguồn: http://tuoitre.vn/Giao-duc/516330/Can-mot-nen-giao-duc-khai-sang.html

Giáo dục đại học: Lỗi ở cả hệ thống

Posted: 17 Oct 2012 04:11 PM PDT

Vậy nguyên nhân từ đâu khiến chất lượng đào tạo như vậy trong khi đây lại là nguồn nhân lực "xung kích" quyết định sự phát triển, phồn vinh của đất nước?

Chúng tôi đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Bùi Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học, Bộ Giáo dục Đào tạo về vấn đề này.

Quá sức!

PV: Trong 6 năm qua, đã có thêm 84 trường ĐH được thành lập, trong đó 51 trường nâng cấp từ trường cao đẳng (CĐ) và 33 trường thành lập mới. Như vậy mỗi năm bình quân có 14 cơ sở đào tạo ĐH ra đời. Thưa ông, con số này cho thấy sự ra đời của cơ sở đào tạo ĐH hình như quá mức cần thiết?

PGS.TS Bùi Anh Tuấn: Theo tôi trong những năm qua, đào tạo ĐH tăng rất nhanh về quy mô, cơ sở, số lượng người học… để tạo cơ hội cho những người muốn học ĐH, nhất là ở vùng sâu, xa, kinh tế khó khăn và đáp ứng sự phát triển của đất nước cũng như sự hội nhập quốc tế. Có thể nói đào tạo ĐH hiện nay được "phủ" rất rộng trên toàn quốc và theo tôi đây là thành tựu, nỗ lực rất lớn của ngành giáo dục. Nhưng nói như vậy, không có nghĩa số lượng trường ĐH là yếu tố quan trọng nhất mà còn phải dựa trên chất lượng đào tạo. Nếu anh đào tạo có chất lượng, bảo đảm các tiêu chí của Bộ GDĐT đặt ra, anh sẽ tồn tại, phát triển. Còn không, anh sẽ tự loại mình khỏi guồng quay đào tạo của giáo dục ĐH. Như năm học 2010-2011, các trường CĐ có đào tạo hệ ĐH có 226 trường thì đến năm học 2011-2012 chỉ còn 215 trường. Nguyên nhân là do không bảo đảm chất lượng đào tạo thì Bộ buộc những cơ sở này phải dừng tuyển sinh.

Quan điểm của ngành là nếu bảo đảm các điều kiện về cơ sở vật chất, về giảng viên, nội dung đào tạo… thì vẫn cho mở trường ĐH. Vì như tôi đã nói là tạo cơ hội học tập cho nhiều người và thực tế nhiều vùng, miền vẫn chưa có trường ĐH. Nhưng từ năm 2010 đến nay, Bộ đã hạn chế rất nhiều việc thành lập mới các cơ sở đào tạo ĐH. Tính đến nay cả nước đã có tổng số 419 cơ sở đào tạo ĐH cả trong và ngoài công lập, cả của trường CĐ và ĐH.


PGS.TS Bùi Anh Tuấn - , Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học, Bộ Giáo dục  Đào tạo.

PV: Theo ông, con số đó có "quá sức" so với ngành giáo dục không?

PGS.TS Bùi Anh Tuấn: Có thể nói đây là con số phát triển "nóng" trong thời gian vừa qua. Và vì "nóng" nên chất lượng đào tạo cũng chưa được bảo đảm do "sức" chỉ đảm bảo được 15kg nhưng lại phải gánh đến 20kg. Đặc biệt là đội ngũ giảng viên – yếu tố then chốt quyết định chất lượng đào tạo ĐH.

PV: Ông có thể nói rõ hơn về vấn đề này?

PGS.TS Bùi Anh Tuấn: Hiện nay, hệ CĐ có gần 25 nghìn giảng viên, hệ ĐH gần 60 nghìn giảng viên. Với số lượng giảng viên như vậy phải nói thật là không đủ để giảng dạy. Và không những thiếu về số lượng, đội ngũ giảng viên còn thiếu cả về cơ cấu hành nghề, chất lượng. Như hệ đào tạo ĐH, hiện mới chỉ có 14% giảng viên là tiến sĩ, rất thấp so với nhu cầu thực tế.

PV: Trong điều kiện số lượng và chất lượng giảng viên vẫn còn thiếu và thấp. Vậy tại sao Bộ GDDT vẫn cho phép mở trường ĐH, hệ đào tạo ĐH thưa ông?

PGS.TS Bùi Anh Tuấn: Theo quy định 0830 của Bộ GDĐT, khi thành lập trường, hệ đào tạo ĐH đội ngũ giảng viên ít nhất phải bảo đảm được 70% kiến thức giảng dạy. Thế nhưng việc tăng trưởng về quy mô đã bị nói nhiều nên từ 2011 đến nay, nhằm thực hiện đổi mới về công tác quản lý, giáo dục ĐH nên Bộ đã quản lý, giám sát sát sao việc này. Trường nào không đủ điều kiện là bị đình chỉ ngay hoặc không được cấp phép.

Như năm 2012, tính đến thời điểm tháng 3, đã có 5 trường ĐH, CĐ bị dừng tuyển sinh như ĐH Đông Đô, ĐH Văn Hiến, ĐH Hùng Vương… 4 trường ĐH gồm ĐH Chu Văn An, ĐH Lương Thế Vinh, ĐH Kiến trúc Đà Nẵng bị đình chỉ một số ngành nghề tuyển sinh như: Kỹ thuật xây dựng công trình, kinh tế, Việt Nam học, quản trị kinh doanh… Tới đây, danh sách này sẽ còn dài nữa.

PV: Được biết, để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên cũng như chất lượng đào tạo ĐH, Bộ GDĐT có đề án 911 với nội dung: từ nay cho đến năm 2020 sẽ đào tạo hơn 20 nghìn tiến sĩ cho đội ngũ giảng viên hệ ĐH và CĐ. Theo ông đây có là đề án quá "tham vọng" như nhiều ý kiến đánh giá không?

PGS.TS Bùi Anh Tuấn: Thấy rõ vấn đề của giáo dục ĐH, đồng thời xác định đây là nền tảng căn bản để phát triển đất nước, Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng đề án 911 để đào tạo đội ngũ giảng viên cho ĐH và CĐ với mục tiêu đến năm 2020, tuyển sinh, đào tạo được hơn 20 nghìn tiến sĩ. Đề án này theo tôi là một đề án hoàn toàn khả thi và thực tế chứ không "lãng mạn", hay "tham vọng" như nhiều người nghĩ. Vì nó nằm trong khả năng của chúng ta nếu chúng ta nỗ lực và thay đổi một cách đồng bộ hệ thống giáo dục ĐH. Mà điều này, chúng ta đang bắt đầu thực hiện. Bắt đầu từ năm nay, Bộ đã triển khai theo hình thức đưa đi đào tạo tại nước ngoài những giảng viên, sinh viên có tâm huyết, tài năng, yêu nghề. Con số đào tạo trên là 10 nghìn sinh viên. Cùng với đó 10 nghìn sinh viên khác sẽ được giao cho những trường trong nước có điều kiện, khả năng để đào tạo tiến sĩ và khoảng 3.000 sinh viên đào tạo theo mô hình liên kết giữa Việt Nam và nước ngoài. Phải nói thêm đây là đề án rất thu hút những sinh viên trẻ bởi các em nhìn thấy ở đó điều kiện học tập tốt (học bổng do Nhà nước tài trợ hoàn toàn), cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp rõ rệt. Chúng tôi xác định đến sau năm 2020 (vì còn tính thời gian đào tạo) đội ngũ giảng viên ĐH, CĐ sẽ có 23 nghìn tiến sĩ.

Đại học: Vào khó – ra dễ

PV: Nội dung chương trình đào tạo cũng là nguyên nhân làm cho chất lượng đào tạo ĐH không được bảo đảm. Có trường hợp: trường này giảng dạy nhưng nội dung đào tạo lại "copy" của trường khác hoặc phải nhờ trường khác thẩm định… Ông có ý kiến như thế nào về câu chuyện này?

PGS.TS Bùi Anh Tuấn: Đây cũng là điểm yếu trong đào tạo ĐH mà chúng tôi xác định phải thay đổi một cách tích cực. Mặc dù so với trước đây, nó có tiến bộ hơn nhưng trong thời kỳ khoa học kỹ thuật, công nghệ, kinh tế… phát triển như hiện nay thì đúng là chương trình chưa đáp ứng được, tụt hậu so với thế giới. Chúng tôi sẽ thay đổi như thế nào? Trước hết đối với những trường thành lập mới: nội dung, chương trình đào tạo sẽ là các yếu tố then chốt để đưa đến quyết định có cho phép thành lập trường hay không. Chương trình đó không những đảm bảo về khoa học gồm cả kết cấu lẫn nội dung mà còn phải phù hợp với nhu cầu phát triển của Việt Nam và đặc biệt phải cập nhật những kiến thức mới, tiến bộ của thế giới. Nhưng quan trọng nhất của chương trình, nội dung đào tạo đó là phải chuyển giao được công nghệ tiên tiến của những quốc gia phát triển cho nước ta, của thế hệ trước cho thế hệ sau và làm cho công nghệ ấy phải phát triển lan tỏa một cách rộng rãi. Còn đối với những trường đã thành lập, hậu kiểm là phương pháp tối ưu để kiểm soát chương trình, nội dung đào tạo của họ. Nếu kiểm tra, giám sát, nội dung chương trình đào tạo của anh không đạt mục tiêu như đã đặt ra, nhất là mục tiêu chuyển giao công nghệ (đối với ngành khoa học kỹ thuật…) thì hoặc là bị đình chỉ ngành nghề đào tạo hoặc là bị dừng tuyển sinh. Hiện nay, chúng tôi đã xây dựng được 35 chương trình tiên tiến dựa trên chương trình đào tạo của những nước đứng trong "top đầu" thế giới về một số ngành nghề để làm nền tảng cho chương trình giảng dạy của các trường. Đặc biệt là đối với những trường đào tạo ngành mũi nhọn như: khoa học công nghệ, tài chính, ngân hàng, kinh tế quản lý…


Giáo dục nhân lực còn là điểm ghẽn của phát triển đất nước.

Giáo dục nhân lực còn là điểm ghẽn của phát triển đất nước.

 

PV: Thưa ông, trước đây, khi chưa đổi mới cũng như đặt ra tiêu chí cho nội dung, chương trình đào tạo quyết liệt như vậy thì Bộ có thực hiện việc kiểm tra, đánh giá không?

PGS.TS Bùi Anh Tuấn: Có làm nhưng có thể nói là khá dễ dãi. Nhưng từ bây giờ trở đi công tác thẩm định, kiểm tra, đánh giá… là một khâu trọng yếu không những để nâng cao nội dung, chương trình đào tạo mà còn để tạo môi trường học tập nghiêm túc, công bằng cho học sinh, sinh viên và quan trọng nhất là tạo tâm thế, hào hứng cho người học.

PV: Có một đặc điểm dễ nhận thấy ở tuyển sinh ĐH của ta là "đầu vào" rất khó, rất chặt chẽ nhưng đầu ra rất dễ, đến nỗi gần như mặc định: đỗ ĐH thì đương nhiên sẽ tốt nghiệp ĐH. Khác hẳn với những nước tiên tiến về giáo dục?

PGS.TS Bùi Anh Tuấn: Theo tôi, vấn đề này tùy theo từng hình thức đào tạo. Nếu đào tạo theo hình thức tín chỉ như nhiều trường ĐH hiện nay thì tỷ lệ sinh viên ra trường đúng thời hạn rất ít. Bạn đã nghe câu: "Không thi lại không là sinh viên rồi đúng không?". Hay đào tạo tiến sĩ cũng thế. Những người không ở trong nghề ai cũng tưởng đã làm nghiên cứu, bảo vệ luận án là sẽ đỗ. Nhưng thực tế không phải vậy, tôi ví dụ như Trường ĐH Kinh tế Quốc dân, tỷ lệ đạt bằng tiến sĩ chỉ 60%, còn đâu trượt hết. Bảo vệ luận án tiến sĩ thành công ít lắm. Bây giờ chặt chẽ, nghiêm minh hơn rồi… Trước đây, các hình thức đào tạo không phải như vậy thì có thể là thế.

PV: Có một mâu thuẫn ở giáo dục ĐH nói riêng và các cấp học nói chung, khi ra "đấu trường" quốc tế, học sinh Việt Nam rất giỏi lý thuyết, nhưng thực hành thì không. Hay khi ngồi trên giảng đường, học sinh thuộc lý thuyết làu làu. Nhưng khi tốt nghiệp ra trường, lại không đáp ứng được công việc thực tế. Nhiều khi chúng ta "mất điểm" vì nguyên nhân đó và giáo dục Việt Nam tụt hậu cũng vì nguyên nhân đó?

PGS.TS Bùi Anh Tuấn: Tình trạng mượn cơ sở trường lớp, không chịu đầu tư vào phòng thí nghiệm hay máy móc… là chuyện có thật ở trong giáo dục ĐH. Đặc biệt là ở khối ngoài công lập. Trong công tác "hậu kiểm", giám sát hiện nay, có một số trường như vậy, chúng tôi đình chỉ ngay. Trong số những trường bị đình chỉ mà tôi nói ban đầu là có trường bị dừng tuyển sinh là vì nguyên nhân như vậy. Mặc dù, chúng tôi đã để cho mấy năm vì thực tình khi đầu tư để mở trường ĐH, kinh phí rất lớn. Nhưng đến giờ không xây dựng trường, không đầu tư thiết bị thực hành, phòng thí nghiệm… thì chúng tôi buộc phải dừng tuyển sinh của trường. Đã xác định rõ đào tạo nhân lực cho xã hội thì phải đầu tư đến nơi đến chốn.

PV: Thực tế cho thấy, hệ thống trường ngoài công lập nhiều nơi chưa bảo đảm chất lượng đào tạo, cơ sở vật chất thì còn tệ hơn. Ý kiến này theo ông có đúng không?


Chất lượng giáo dục cần phải thay đổi cấp thiết.

Chất lượng giáo dục cần phải thay đổi cấp thiết.

 

PGS.TS Bùi Anh Tuấn: Nói chung những trường như mong muốn chưa nhiều. Theo tôi ở Hà Nội có Trường ĐH Thăng Long là một trong số ít làm được điều đó. Nhưng nếu các trường không đầu tư, xây dựng chương trình, cơ sở vật chất thì chính các trường tự loại mình ra khỏi môi trường giáo dục. Vì bây giờ sẽ thực hiện xếp hạng các trường ĐH trong nước và việc xếp hạng đó sẽ làm cho những trường ấy không có thí sinh nào lựa chọn do thứ hạng thấp. Thứ hạng thấp dẫn đến uy tín thấp. Uy tín thấp thì những sinh viên tốt nghiệp trường đó ra khó xin được việc làm nên chẳng ai thi vào trường đó làm gì.

Bên cạnh việc tổ chức xếp hạng các trường ĐH, Bộ GDĐT cũng đặt cơ sở vật chất là một trong những điều kiện tiên quyết cho việc thành lập trường hoặc tiếp tục cho trường duy trì hoạt động hay không. Nếu không bảo đảm cơ sở vật chất, dứt khoát Bộ không cho trường ĐH hoạt động! Cùng với giảng viên, đây là vấn đề được thắt chặt quản lý hiện nay.

"Đến tôi cũng phải thay đổi!"

PV: Xem ra, giáo dục ĐH có quá nhiều việc phải làm. Vì chúng ta yếu ở cả hệ thống?

PGS.TS Bùi Anh Tuấn: Đúng thế. Phải thắt chặt quản lý ở tất cả các khâu từ giảng viên, cơ sở vật chất, chương trình, phương pháp đào tạo… Bên cạnh đó còn xây dựng Luật Giáo dục, tổ chức các khâu kiểm định, đánh giá… một cách quy củ (Luật Giáo dục ra đời mới tổ chức được các tổ chức kiểm định, đánh giá độc lập). Nhưng quan trọng nhất là phương thức quản lý phải thay đổi từ nặng về chuyên môn, hành chính sang quản lý Nhà nước, tăng cường giám sát, kiểm tra chặt chẽ theo định hướng của Nhà nước. Và mỗi cá nhân trong bộ phận quản lý đó cũng phải thay đổi. Như tôi cũng phải thay đổi: nâng cao tự chủ và tự chịu trách nhiệm với hành động, việc làm của mình. Các cơ sở đào tạo CĐ, ĐH cũng vậy.

PV: Nhưng hình như việc giao quyền tự chủ không phải trường ĐH nào cũng muốn nhận?

PGS.TS Bùi Anh Tuấn: Vì họ sợ chịu trách nhiệm. Nhiều trường bây giờ cứ đến Bộ để đề nghị một số lãnh đạo ký xác nhận vào những văn bản mà họ đề ra để lấy đó làm cơ sở khẳng định không vi phạm, phạm luật v.v… Nhưng chúng tôi nói ngay: "Anh phải tự chịu trách nhiệm với những quyết định, hành động của mình chứ". Và đây chính là điều mà chúng tôi muốn nâng cao tuyệt đối ở các trường. Như sản phẩm (là sinh viên) của anh làm ra, anh phải chịu trách với sản phẩm của anh. Có như vậy, ý thức đào tạo có chất lượng của anh mới hiệu quả. Còn chẳng hạn có gì chưa đúng, chưa chuẩn xác thì vừa làm vừa rút kinh nghiệm, chấn chỉnh…

PV: Còn công tác quản lý, cũng đang được phân cấp lại?

PGS.TS Bùi Anh Tuấn: Chúng tôi sẽ phân cấp lại cơ quan quản lý: chẳng hạn như các trường ĐH, CĐ trên địa bàn từ trước tới nay Bộ GDĐT quản lý thì sẽ giao lại cho UBND các tỉnh, thành để họ giao cho các Sở GDĐT kiểm tra, giám sát xem các trường hoạt động thế nào. Vì ở trên địa bàn do anh quản lý, anh cần phải biết họ hoạt động ra sao. Cái gì cũng Bộ làm hết thì quản lý không nổi. Bộ chỉ định hướng nội dung, chương trình đào tạo và xây dựng "khung" pháp lý để các trường hoạt động. Còn hoạt động như thế nào do anh Sở kiểm tra.

PV: Cảm ơn ông về cuộc trao đổi này!

 

 

 Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân cho biết tại phiên chất vấn của Quốc hội tháng 11 năm 2011

 

"Đổi mới giáo dục là vấn đề cấp bách và được nhiều nước đặt ra trong vòng 10 năm trở lại đây. Ở Việt Nam, một thời gian dài hệ thống giáo dục ĐH đào tạo theo khả năng, chưa có chuẩn. Vừa qua, Bộ yêu cầu các trường phải công bố chuẩn đầu ra nhưng hiện còn hơn 40% các trường chưa thực hiện. Muốn nâng cao chất lượng, phải nâng cao chuẩn đầu vào, bảo đảm diện tích theo đầu sinh viên. Bởi nhiều trường diện tích đầu sinh viên chưa đến 1m2/người. Đa số giáo viên phổ thông đạt chuẩn nhưng giáo viên ĐH thì chưa. Để thay đổi, nâng cao chất lượng giáo dục ĐH, quản lý chính là khâu đột phá của hệ thống giáo dục. Bên cạnh đó phải hoàn chỉnh lại quy hoạch giáo dục ĐH, phân cấp quản lý, hoàn chỉnh quy chế, đẩy mạnh tự chủ của các trường, nâng cao chất lượng đội ngũ hiệu trưởng của hơn 3 vạn trường phổ thông và hơn 400 trường ĐH, CĐ. Cần có chính sách hợp lý đối với đầu cho giáo dục. Phổ cập tiểu học phải mất 25 năm, phổ cập THCS mất 10 năm và phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi phải làm mất 5 năm. Năm 2000, cứ 100 em tốt nghiệp THPT có 16 em được vào ĐH nhưng vừa qua cứ 100 em tốt nghiệp có 55 em vào ĐH. Trong vòng 10 năm qua, người được đào tạo nghề nghiệp đã được nâng từ 16% lên 40%. Đây là con số lạc quan".

Petrotimes

 

Nguồn: http://dantri.com.vn/c25/s25-652417/giao-duc-dai-hoc-loi-o-ca-he-thong.htm

Tranh cãi về chuẩn chất lượng cao

Posted: 17 Oct 2012 04:10 PM PDT

- Không đợi chờ tiêu chuẩn về giáo dục chất lượng cao (CLC), các trường học đều nỗ lực nâng cao trình độ giáo viên và cơ sở vật chất hay bồi dưỡng HS giỏi. Tuy nhiên, lãnh đạo các trường đều khá thận trọng trước dự thảo thông tư quy định về học phí chất lượng CLC.

Để không phân biệt đối xử

Dự thảo thông tư quy định về học phí CLC của Bộ  GD-ĐT nếu được áp dụng sẽ giúp các trường nâng chất lượng giáo dục và cải thiện đời sống cho giáo viên. Tuy nhiên, lãnh đạo các trường đón nhận thông tin này với thái độ hết sức thận trọng và không ít băn khoăn.

THCS Cầu Giấy (quận Cầu Giấy, Hà Nội) là ngôi trường thực hiện Đề án thí điểm đào tạo trình độ cao, chất lượng cao đã được UBND thành phố phê duyệt. (Ảnh: Văn Chung)

Theo ý kiến của hiệu trưởng Trường TH Thành Công B (quận Ba Đình, Hà Nội) Phạm Thị Yến: "Ngoài yêu cầu chuẩn giáo viên, trường CLC phải có cơ sở vật chất tốt, tăng cường dạy ngoại ngữ, ít học sinh"

"Nhiều phụ huynh có điều kiện sẵn sàng trả thêm tiền để con học trong môi trường tốt hơn. Nếu dịch vụ CLC vào đương nhiên cả phụ huynh, HS và nhà trường đều có lợi" – bà Yến chia sẻ.

Xét các tiêu chí của dự thảo trường đã đáp ứng được chuẩn về giáo viên khi 100% đội ngũ quản lí, giáo viên đều đạt trên chuẩn. 85% có bằng đại học, có người có bằng thạc sĩ, cơ sở vật chất tốt (cả trường đã áp dụng mô hình lớp học tương tác).

Tuy nhiên, trường khó đạt "chuẩn CLC" bởi phải thực hiện nhiệm vụ "giáo dục toàn dân", mỗi lớp học khá đông (khoảng 50 em). Nếu muốn giãn học sinh phải mở thêm lớp, tăng biên chế giáo viên.

Còn nhiều băn khoăn, tranh cãi xung quanh dự thảo Thông tư quy định về học phí CLC.
(Ảnh minh họa. Ảnh: Văn Chung)

Một điều khiến bà Yến lo ngại: "Nếu thực hiện dịch vụ cho một nhóm HS dễ dẫn tới suy nghĩ bị đối xử thiếu công bằng cho trẻ ngay trong một trường".

Hiệu trưởng Trường TH Xuân Đỉnh (huyện Từ Liêm, Hà Nội) Nguyễn Thị Bích Hằng lại ủng hộ với việc có thể mở dịch vụ cho một nhóm HS gia đình có điều kiện và có nhu cầu.

Hiện tại, trường này đã thực hiện dạy tiếng Anh trên máy vi tính cho học trò.

Theo bà Hằng lớp học tương tác hay mô hình học tiếng Anh trên vi tính là một phần không thể thiếu trong dịch vụ giáo dục chất lượng cao.

Song, khó khăn về bố trí lớp học và số học sinh/lớp ít là điều khiến bà Hằng, bà Yến và nhiều lãnh đạo nhà trường tại Hà Nội đau đầu bởi quỹ đất cho trường hạn hẹp trong khi số trẻ đến tuổi tới trường tăng nhanh.

Cùng với khối THCS của Trường THPT Chuyên Hà Nội – Amsterdam, đây cũng là năm thứ 2 Trường THCS Cầu Giấy (quận Cầu Giấy, Hà Nội) thực hiện Đề án thí điểm đào tạo trình độ cao, chất lượng cao đã được UBND thành phố phê duyệt.

Tuy nhiên, do từ trước tới nay Bộ GD-ĐT chưa có văn bản nào nói về trường hay dịch vụ CLC nên hiện nay sĩ số HS/lớp của trường cũng khoảng 40 em. Nếu muốn được công nhận đào tạo CLC theo hiệu trưởng Dương Viết Tiến: "Trường cũng cần giãn học sinh, cân bằng sĩ số bằng cách tuyển ít hơn vào năm sau".

Chia sẻ với lo ngại dịch vụ CLC cho nhóm HS có thể gây suy nghĩ phân biệt trẻ ngay trong một trường, ông Tiến cho rằng: "Vấn đề là giải quyết nhận thức cho mọi người hiểu và ủng hộ. Không có chuyện vì đào tạo dịch vụ CLC mà đối xử phân biệt với các em còn lại".

Vị hiệu trưởng nhấn mạnh: "Không thể vì tư tưởng cào bằng mà kéo nhau về lạc hậu. Hơn nữa đây là nhu cầu của phụ huynh và cũng tạo điều kiện cho công tác xã hội hóa giáo dục".

Mập mờ tiêu chí?

 

Hiệu trưởng Hằng bày tỏ nhiều băn khoăn với dự thảo dịch vụ CLC ở quy định "các khoản thu trên cơ sở thỏa thuận và tự nguyện của gia đình học sinh" và việc trường cam kết thực hiện "chất lượng giáo dục cao hơn với mức độ hiện tại".

Lớp học với hệ thống bảng tương tác có giá hơn 160 triệu đồng của Trường TH Nguyễn Trãi (quận Thanh Xuân, Hà Nội). (Ảnh: Châu Giang).

Theo bà Hằng: "Các khoản thu nên có văn bản hướng dẫn cụ thể để phụ huynh và trường cùng nắm rõ, tránh hiểu lầm dẫn tới bức xúc của phụ huynh. Bộ hay Sở GD-ĐT cũng cần đưa ra những chuẩn cụ thể về các tiêu chí để trường được công nhận đào tạo CLC, không nên mập mờ như dự thảo".

Cùng chung lo lắng, Hiệu trưởng Trường THPT DL Đinh Tiên Hoàng Nguyễn Tùng Lâm đề xuất về một "hội đồng giám sát độc lập" nhằm kiểm tra chất lượng giáo dục ở các cơ sở đào tạo dịch vụ CLC.

Tuy nhiên, Hiệu trưởng Trường TH Xuân Đỉnh Nguyễn Thị Bích Hằng cho rằng: "Không phải ai cũng có đủ chuyên môn và tâm huyết để làm việc "vác tù và" này. Cơ chế hoạt động của hội đồng nếu không chặt chẽ có thể sẽ gây khó khăn cho việc dạy và học trong nhà trường".

Về xác định tiêu chí, tiêu chuẩn CLC ông Tiến cho rằng: "Mỗi địa phương, vùng miền điều kiện khác nhau nên Bộ GD-ĐT không thể ra chuẩn chung. Với Hà Nội, trí thức cao sẽ đòi hỏi cao hơn là ở vùng như Sơn La, Lai Châu,.. Do đó mới ủy quyền cho các tỉnh thành yêu cầu làm chặt, làm nghiêm và hợp lý.

Tương tự, từ tính toán các điều kiện mà mỗi địa phương đề ra các cơ sở về thu chi và tài chính cho phù hợp. Các ngành từ: Giáo dục, Nội vụ, Tài chính,…đều bắt tay vào làm các khâu từ thẩm định, ra quyết định, tổ chức thực hiện đến thanh- kiểm tra. Như vậy là khá chặt chẽ.

Trường CLC được thu cao?

Đối chiếu với các điều kiện trong dự thảo, có lẽ Trường THCS Cầu Giấy sẽ sớm được công nhận đào tạo dịch vụ CLC. Do là công trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội nên cơ sở vật chất của trường này khá khang trang. Trường thi tuyển và tuyển sinh ít.

Hiệu trưởng Dương Viết Tiến thông tin: đề xuất mức thu học phí 600.000 đồng/HS/tháng của trường chưa được thông qua. HS hiện chỉ phải đóng mức 40.000 đồng/HS/tháng, chi phí còn lại vẫn do ngân sách cấp.

Đội ngũ quản lí và giáo viên của trường đều đạt trên chuẩn: 100% GV đều là những người được công nhận là dạy giỏi, có trình độ ĐH và trên đại học, 30% có bằng thạc sĩ.

Trường có GV nước ngoài giảng dạy tiếng Anh, mỗi lớp học 4 tiết/tuần và dự tính mở 2 lớp song ngữ các môn Toán, Hóa, Sinh. Trường cũng có liên kết với một trường quốc tế làm kênh để học sinh có thể đi du học sau khi tốt nghiệp.

Việc Bộ GD-ĐT có chủ trương quy định về học phí chất lượng giáo dục cao đi kèm với yêu cầu về chất lượng thực sự là điều hiệu trưởng Tiến và các GV trong trường mong mỏi.

Ông Tiến phân tích: "Khác với trường chuyên, mô hình đào tạo CLC giúp HS phát triển toàn diện, đặc biệt là khả năng hội nhập quốc tế và vốn tiếng Anh tốt. Nhiều trường dân lập hiện nay thu phí cao nhưng lại đào tạo mập mờ, nhất là chất lượng GV tiếng Anh. Trong khi trường công lập từ chương trình dạy đến GV quản lí rất chặt, chất lượng đảm bảo. Nếu áp dụng trên diện rộng, phụ huynh sẽ có thêm lựa chọn tốt khi gửi con tới trường".


  • Văn Chung

Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/93042/tranh-ca-i-ve--chuan-chat-luong-cao.html

Comments