Nghề Giáo - Giáo viên - Giáo dục

Nghề Giáo - Giáo viên - Giáo dục


Làm toán bằng cách ‘múa’ ngón tay

Posted: 17 May 2012 03:03 AM PDT

(TNO) Chỉ với chiếc bàn tính hạt gỗ treo trên bảng, các bé ngồi dưới lớp học thực hiện động tác "múa" ngón tay, tưởng tượng sắp xếp các hạt gỗ để tính được những phép toán trong thời gian ngắn.

Đó là những hình ảnh trong lớp học làm toán trí tuệ vừa được mở ra nhân dịp hè tại Nhà Thiếu nhi quận 5, TP.HCM. Lớp học được mở mỗi sáng thứ 7 hàng tuần trong suốt hè.


Cô giáo hướng dẫn các bé phân biệt giá trị của các hạt trên bàn tính bằng trò chơi vận động bàn tay và ngón tay – Ảnh H.Quyên

Những buổi học đầu tiên, các bé sẽ làm quen với bàn tính gỗ. Gọi là giờ học, nhưng chủ yếu các bé chơi trò chơi vận động bằng tay là chủ yếu.

Khi cô giáo hô "trên", lập tức học trò xòe bàn tay đưa lên cao. Ngược lại, cô giáo hô "dưới" thì học trò đưa ngón trỏ vị trí ngay giữa bụng. Hành động này giúp trẻ phân biệt con số quy ước trên bàn tính. Những hạt ở trên có giá trị là 5 và hạt ở dưới có giá trị là 1.

Sau khi thành thạo cách phân biệt giá trị các hạt thông qua vị trí từ 1 – 9, bé được “luyện” phép cộng một cách ngẫu nhiên. Kết hợp với cách làm phép toán cộng là bài học "múa ngón".

Bài múa ngón đầu tiên mang tên "càng cua". Trẻ phải đưa ngón trỏ và ngón cái của bàn tay phải lên, tự tưởng tượng cách gạt bàn tính hạt gỗ sao cho hạt trên và dưới đều được tiến đến thanh ngang.


Trẻ đưa ngón tay hình càng cua và tưởng tượng cách gạt hạt trên bàn tính để làm toán – Ảnh H.Quyên

Khi các hành động đã thành thục, cô giáo chỉ việc đọc số 9, các bé đã có thể hình dung các hạt nằm ở vị trí nào trên bàn tính. Với cách học này, dù không dạy, nhưng trẻ 5, 6 tuổi tự tính nhẩm phép cộng từ số 1 – 9 một cách dễ dàng.

Bé Trần Long Sơn (6 tuổi), khi bắt đầu buổi học còn khá lóng ngóng không biết cái ô vuông với hạt xanh đỏ bên trong là gì. Tưởng đồ chơi, bé cứ gạt lên gạt xuống. Nhưng khi đã được cô giáo giảng về cách làm toán với bàn tính gỗ, bé Sơn biết đọc đáp số những bài toán cô đưa ra.


Bé Trần Long Sơn tỏ ra hứng thú với những bài học vận động ngón tay để làm toán – Ảnh H.Quyên

Anh Bùi Kim Hiếu, người phụ trách lớp học cho biết, ban đầu trẻ chỉ học cách tính toán với 1 chữ số, dần dần sẽ nâng lên 2, 3, 4… chữ số, thậm chí là cách tính khai căn, lũy thừa với bàn tính gỗ.

Khi trẻ học một thời gian dài, thành thạo với bàn tính gỗ mini, dần dần, chỉ dùng tay tưởng tượng đang gạt các hạt trên bàn tính, trẻ có khả năng làm toán nhẩm nhanh hơn.

Anh Hứa Trọng Hiếu, giáo viên dạy kỹ năng toán Trường tiểu học Trần Hưng Đạo (Q.1, TP.HCM) cho biết: “Từ kinh nghiệm giảng dạy học sinh làm toán lớp 1, tôi thấy các bé phải vật lộn với các phép cộng trừ. Một số học sinh của tôi khi tham gia học toán với bàn tính gỗ thì thấy tư duy toán học nhanh và tốt hơn”.

“Tôi nghĩ rằng phương pháp này không hẳn là dạy học sinh làm toán, mà giúp các em tư duy, tưởng tượng, ghi nhớ bài học tốt hơn. Vì thế mà trẻ có thể tính nhẩm các dãy số nhanh nhờ vào trí tưởng tượng. Trẻ con khi học cần trực quan, sinh động thì phương pháp này đáp ứng được điều đó. Nếu có thể kết hợp với phương pháp dạy học truyền thống sẽ tăng tính tương tác giữa thầy và trò trong lớp học nhiều hơn”, thầy Hiếu chia sẻ.

Hoàng Quyên

 

Nguồn: http://www.thanhnien.com.vn/Pages/20120513/lam-toan-bang-cach-mua-ngon-tay.aspx

Nhiều trường công bố tỷ lệ chọi

Posted: 17 May 2012 03:03 AM PDT

Nhiều trường ĐH đã chính thức có số liệu về thí sinh đăng ký dự thi theo từng ngành.

Các trường ĐH, CĐ nhận bàn giao hồ sơ đăng ký dự thi của thí sinh – ẢNH: Đào Ngọc Thạch

Căn cứ vào chỉ tiêu (CT) của các ngành và số thí sinh đăng ký dự thi, thí sinh sẽ biết tỷ lệ chọi. Ngoài điểm chuẩn, đề thi, đây là một yếu tố cần thiết để định lượng khả năng đậu vào ngành/trường mình mong muốn. Từ đây, thí sinh có quyết định chính thức trường sẽ dự thi trong trường hợp cùng lúc nộp nhiều hồ sơ (HS) dự thi.

Khu vực TP.HCM

ĐH Quốc gia:

Trường ĐH Quốc tế: Quản trị kinh doanh đứng đầu với tỷ lệ chọi là 1/5,9 (240 CT/1.418 HS). Các ngành còn lại cụ thể như sau: công nghệ thông tin 1/3,3 (60/196); công nghệ sinh học 1/6,2 (120/743); kỹ thuật điện tử, truyền thông 1/1,4 (50/71); kỹ thuật hệ thống công nghiệp 1/1,5 (50/75); kỹ thuật y sinh 1/4,5 (50/223); quản lý nguồn lợi thủy sản 1/1,5 (20/30); công nghệ thực phẩm 1/2,7 (50/136); tài chính ngân hàng 1/4 (120/485); kỹ thuật xây dựng: 1/3 (40/120).

Trường ĐH Bách khoa: Ngành kiến trúc dân dụng và công nghiệp dẫn đầu với 1/18 (40 chỉ tiêu/737 hồ sơ). Các nhóm ngành còn lại như sau: công nghệ thông tin (kỹ thuật máy tính, khoa học máy tính) 1/3,3 (330/1.100); điện – điện tử 1/3,1 (660/2.010); cơ khí – cơ điện tử 1/3,8 (500/1.899); công nghệ dệt may 1/3 (70/210); công nghệ hóa – thực phẩm – sinh học 1/3,7 (430/1.600); xây dựng 1/3,9 (520/2.017); kỹ thuật địa chất – dầu khí 1/6,9 (150/1.040); quản lý công nghiệp 1/4,7 (160/758); kỹ thuật và quản lý môi trường 1/4 (160/642); kỹ thuật giao thông 1/3 (180/601); kỹ thuật hệ thống công nghiệp 1/2 (80/186); công nghệ vật liệu 1/0,5 (200/90); trắc địa – địa chính 1/1,2 (90/110); vật liệu và cấu kiện xây dựng 1/1,8 (80/146); vật lý kỹ thuật – cơ kỹ thuật 1/3 (150/452).

Trường ĐH Kinh tế – Luật: Ngành tài chính ngân hàng cao nhất: 1/10,5 (225 CT/2.363 HS). Các ngành còn lại như sau: kinh tế (kinh tế học, kinh tế và quản lý công) 1/5,6 (200/1.112); kinh tế đối ngoại 1/6 (225/1.375); quản trị kinh doanh 1/9,4 (225/2.105); kinh doanh quốc tế 1/7,3 (100/727); kế toán và kiểm toán 1/5,4 (225/1.223); hệ thống thông tin quản lý 1/2 (100/211); luật dân sự 1/7 (100/713); luật kinh tế và luật quốc tế (luật kinh doanh, luật thương mại quốc tế, luật tài chính – ngân hàng – chứng khoán) 1/7,4 (300/2.217).

Trường ĐH Khoa học tự nhiên: Theo số liệu tính đến ngày 16.5, ngành công nghệ sinh học có tỷ lệ "chọi" cao nhất với 1/15,8 (200 CT/3.160 HS). Các ngành khác lần lượt: toán học 1/2,1 (300/643); vật lý học: 1/1,64 (250/410); kỹ thuật hạt nhân 1/13 (50/650); kỹ thuật điện tử, truyền thông 1/2,9 (200/580); hải dương học 1/3,2 (100/315); nhóm ngành công nghệ thông tin 1/5,4 (550/2.700); hóa học 1/6,8 (250/1.700); địa chất 1/8,7 (150/1.300); khoa học môi trường 1/15,5 (150/2.330); công nghệ kỹ thuật môi trường 1/8,9 (120/1.070); khoa học vật liệu 1/5,94 (180/1.070); sinh học 1/4,6 (300/1.390).

Trường ĐH Y dược TP.HCM:  Ngành xét nghiệm y học có tỷ lệ chọi cao nhất với 1/36,2 (60 CT/2.173 HS). Bác sĩ đa khoa: 1/8,2 (600/4.895); bác sĩ răng hàm mặt 1/13,2 (120/1.578); dược học: 1/17,8 (300/5.347); y học cổ truyền: 1/10,5 (150/1.581); y học dự phòng 1/6,8 (100/681); điều dưỡng 1/23,7 (180/4.258); y tế công cộng 1/12,1 (60/724); vật lý trị liệu, phục hồi chức năng 1/20,9 (30/627); kỹ thuật y học hình ảnh 1/20,6 (30/617); kỹ thuật phục hình răng 1/15 (30/449).

Trường ĐH Tài chính – Marketing: Ngành kế toán dẫn đầu với 1/16,6 (200 CT/3.310 HS). Quản trị kinh doanh 1/16,3 (450/7.325); quản trị khách sạn 1/16 (240/3.816); marketing 1/15,8 (260/4.104); bất động sản 1/3,3 (100/329); kinh doanh quốc tế 1/7,5 (250/1.886); tài chính ngân hàng 1/7,4 (700/5.170); hệ thống thông tin quản lý 1/5,5 (100/552); ngôn ngữ Anh 1/13,5 (100/1.350). Thực hiện theo quy định của Bộ GD-ĐT, năm 2012 trường không tổ chức cho thí sinh xét tuyển nguyện vọng bổ sung trong ngày làm thủ tục dự thi như thông báo ban đầu.

Trường ĐH Luật TP.HCM: Ngành quản trị – luật 1/14,2 (100 CT/1.417 HS); luật học 1/9,7 (1.300/12.658); quản trị kinh doanh: 1/11,1 (100/1.110).

Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long

ĐH Cần Thơ: Ngành kế toán có tỷ lệ chọi cao nhất với 1/37, kế đến là các ngành: kinh doanh thương mại 30,3; công nghệ thực phẩm 26,3; quản trị dịch vụ và lữ hành 26; quản lý tài nguyên và môi trường 24,8; giáo dục tiểu học 21,7; quản lý đất đai 19,7; công nghệ chế biến thủy sản 19,4; marketing 19; tài chính ngân hàng 14,8; luật 13,9; kỹ thuật điện, điện tử 13,6; bảo vệ thực vật 13,3… Các ngành tỷ lệ chọi thấp: lâm sinh 0,1; công nghệ thông tin 0,3; sư phạm (SP) tiếng Pháp 0,7; kỹ thuật máy tính 1,3; hệ thống thông tin, khoa học máy tính 1,4; ngôn ngữ Pháp 1,5…

Trường ĐH An Giang: Ngành công nghệ thực phẩm đứng đầu với 1/15,1. Những ngành tỷ lệ chọi cao: phát triển nông thôn 10,5; khoa học cây trồng 10,5; kế toán 7,2; giáo dục tiểu học 7; công nghệ sinh học 6,7; nuôi trồng thủy sản 6,1; tài chính ngân hàng 5,5… Các ngành tỷ lệ chọi thấp: Sư phạm – SP sinh học 0,8; SP tin học 0,85; SP hóa học 0,87; SP vật lý 0,9…

Trường ĐH Đồng Tháp: Có 4.811 HS đăng ký dự thi vào trường, nếu so chỉ tiêu 2.200 thì tỷ lệ chọi bình quân chung là 2,1. Những ngành có lượng HS nộp nhiều là giáo dục tiểu học, giáo dục mầm non, khoa học môi trường, tài chính ngân hàng, kế toán, quản lý đất đai, nuôi trồng thủy sản, quản trị kinh doanh…

 

Không nhiều biến động ở trường ngoài công lập

Trường ĐH Lạc Hồng: Tỷ lệ chọi năm nay của trường là 1/1,87 (2.400 CT/4.500 HS). Năm nay, trường có giảm nhẹ HS nhưng số lượng thí sinh khối ngành kỹ thuật lại tăng hơn năm ngoái. Chính vì thế, khoảng cách về số lượng giữa khối ngành kinh tế và kỹ thuật không còn cách nhau quá xa như trước.

Trường ĐH Nguyễn Tất Thành: Tỷ lệ chọi chung là 1/1,47 (7.500 CT /11.000 HS). Năm nay trường này được phép tổ chức thi tuyển cả bậc CĐ chứ không xét tuyển như nhiều trường khác.

Trường ĐH Hoa Sen: Tỷ lệ này là 1/3,23 (1.760 CT/8.912 HS). Cũng như mọi năm, trong các trường ĐH ngoài công lập, trường này vẫn là trường có tỷ lệ chọi cao nhất.

Trường ĐH Quốc tế Hồng Bàng: Tỷ lệ chọi rất thấp. Trường nhận được khoảng 1.500 HS trong khi CT năm nay là 4.400. Với số liệu này, có thể nhận định chỉ cần đủ điểm sàn, thí sinh sẽ trúng tuyển.

Trường ĐH Kỹ thuật công nghệ TP.HCM: Không tổ chức thi (chỉ xét tuyển). Năm nay trường nhận được khoảng 6.000 HS với 5.600 CT.

Đăng Nguyên

 

Hà Ánh – Quang Minh Nhật

Thu thập thông tin về chỗ trọ
Thí sinh "ưu ái" các trường ĐH-CĐ gần nhà
Thí sinh đăng ký thi ĐH giảm mạnh
Thấy gì qua đợt kiểm tra các trường ĐH, CĐ?
Xét tuyển ĐH-CĐ: Không được đặt ra quy định trái quy chế
Ngày cuối đăng ký dự thi ĐH-CĐ 2012: Đông thí sinh nộp hồ sơ
Học sinh trường quốc tế vẫn được thi ĐH
"Đỏ mắt" tìm thí sinh đăng ký dự thi khối C

 

Nguồn: http://www.thanhnien.com.vn/Pages/20120517/Nhieu-truong-cong-bo-ty-le-choi.aspx

Các trường ĐH phải dừng đào tạo TCCN trước năm 2017

Posted: 17 May 2012 03:03 AM PDT

Bộ GD-ĐT vừa công bố dự thảo thông tư sửa đổi, bổ sung điều 6 của Thông tư số 57/2011/TT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT về xác định chỉ tiêu tuyển sinh trình độ tiến sĩ, thạc sĩ, ĐH, CĐ và TCCN.

Theo đó, các ĐH, học viện, trường ĐH không đào tạo trình độ TCCN, trừ các trường thuộc nhóm ngành văn hóa nghệ thuật; Bộ trưởng sẽ xem xét và quyết định giao đào tạo trình độ TCCN ngành sư phạm cho các trường trực thuộc tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương không có cơ sở đào tạo trình độ TCCN ngành sư phạm.

Dự thảo có thêm quy định: "Các trường không thuộc diện được đào tạo trình độ TCCN đang đào tạo trình độ TCCN phải xây dựng lộ trình giảm dần chỉ tiêu tuyển sinh (mỗi năm giảm không thấp hơn 25% so với chỉ tiêu năm 2011) để dừng tuyển sinh đào tạo trình độ này trước năm 2017".

Trước đó thông tư này quy định: "Các ĐH, học viện, trường ĐH không đào tạo trình độ TCCN".

Vũ Thơ

 

 

 

Nguồn: http://www.thanhnien.com.vn/Pages/20120517/Cac-truong-DH-phai-dung-dao-tao-TCCN-truoc-nam-2017.aspx

ĐH Cần Thơ: Tỷ lệ “chọi” cao nhất là 1/30

Posted: 17 May 2012 03:02 AM PDT

Theo đó, Trường ĐH Cần Thơ nhận được tổng cộng 73.459 hồ sơ (giảm gần 9.000 hồ sơ so với năm 2011). Trong đó, số hồ sơ đăng ký dự thi (ĐKDT) vào trường là 63.053 hồ sơ và 10.442 hồ sơ ĐKDT tại Trường ĐH Cần Thơ nhưng lấy điểm xét tuyển nguyện vọng 1 vào trường khác.

Thống kê của Trường ĐH Cần Thơ cho hay, qua số lượng các hồ sơ ĐKDT vào các ngành/chuyên ngành thì tỷ lệ "chọi" giữa các ngành dao động từ 1 – 30. Trong đó, ngành có tỷ lệ "chọi" cao nhất là Kinh doanh thương mại (khối A, D1: 1/30); Quản trị du lịch và lữ hành (khối A, D1: 1/26); Công nghệ thực phẩm (khối A: 1/26); Quản lý tài nguyên và môi trường (khối A, B: 1/25)…

Một số ngành có tỷ lệ “chọi” thấp (từ 1- 5) như: Sư phạm tiếng Pháp; Ngôn ngữ Pháp; Sư phạm Vật lý; Sư phạm Sinh học; Giáo dục công dân; Văn học; Thông tin học; Toán ứng dụng; Khoa học máy tính; Truyền thông và mạng máy tính; Kỹ thuật phần mềm; Hệ thống thông tin; Công nghệ kỹ thuật hóa học; Kỹ thuật cơ – điện tử…

Qua bảng thống kê cho thấy, nhìn chung các ngành khối C có tỷ lệ “chọi” khá thấp, trong đó có các ngành Sư phạm; các ngành khối A, B, D1 có tỷ lệ “chọi” ngang ngửa nhau.

Mời bạn đọc xem tỷ lệ “chọi” giữa các ngành vào Trường ĐH Cần Thơ năm 2012 tại đây.

Huỳnh Hải

Nguồn: http://dantri.com.vn/c25/s25-596807/dh-can-tho-ty-le-choi-cao-nhat-la-130.htm

Cần thay đổi cách đào tạo giáo viên

Posted: 17 May 2012 03:01 AM PDT

(GDTĐ)-Rời trường phổ thông mang theo rất ít khả năng tự học và ý thức chủ động, các em học sinh trở thành sinh viên ĐH, CĐ. Trong khi đó, các trường ĐH, CĐ sư phạm đào tạo ra giáo viên các cấp học hiện nay cũng chưa có đủ những giải pháp hữu hiệu để giúp sinh viên nâng cao khả năng và ý thức đó. TS.Nguyễn Văn Đệ – Hiệu trưởng trường ĐH Đồng Tháp trao đổi với phóng viên báo Giáo dục và Thời đại Online về vấn đề đào tạo trong trường sư phạm hiện nay.

vcvc
TS.Nguyễn Văn Đệ. Ảnh: gdtd.vn

Ít khả năng tự học, thiếu ý thức chủ động

Theo ông, đâu là điểm yếu cơ bản nhất của sinh viên sư phạm hiện nay?

TS.Nguyễn Văn Đệ: Theo tôi, điểm yếu cơ bản nhất hiện nay của sinh viên nói chung và sinh viên các trường sư phạm nói riêng chính là khả năng tự học và ý thức chủ động trong học tập. Điểm yếu này theo họ cho đến khi ra trường trở thành giáo viên. Những giáo viên thiếu khả năng tự học, tự bồi dưỡng và ý thức chủ động trong tổ chức dạy học sẽ rất khó giáo dục cho học sinh của mình chính những phẩm chất này. Từ đó, tạo thành một vòng luẩn quẩn.

Chúng ta nhớ lại mấy năm về trước, khi bộ sách giáo khoa cải cách mới được ban hành, đã có khá nhiều giáo viên chịu bó tay, chờ "trên tổ chức bồi dưỡng tập huấn". Rồi việc tổ chức bồi dưỡng theo phương thức hướng dẫn để giáo viên tự nghiên cứu và tự tìm phương thức thực hiện đã không mang lại hiệu quả. Chỉ đến khi bồi dưỡng theo kiểu "cầm tay chỉ việc" đối với từng bài trong sách, vấn đề mới tạm được giải quyết. Nhưng nhiều giáo viên vẫn còn chưa hài lòng, họ đòi cung cấp các giáo án mẫu để cứ theo đó mà thực hiện việc giảng dạy.

Dĩ nhiên, trong trường phổ thông cũng như ở các trường sư phạm vấn có những nhà giáo giỏi, có năng lực cao trong việc tự bồi dưỡng và chủ động giải quyết mọi vấn đề thuộc phạm vi chuyên môn của mình, nhưng số đó, theo tôi, chưa đủ sức xoay chuyển xu thế và tình hình hiện tại.

Có người lại cho rằng, vấn đề nằm ở những yếu kém trong phương pháp dạy học, học tập?

TS.Nguyễn Văn Đệ: Khả năng tự học và ý thức chủ động trong học tập là điểm yếu cơ bản của sinh viên hiện nay. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn là yếu kém về khả năng sử dụng ngôn ngữ, khả năng tư duy, thiếu nhạy bén trong tiếp cận và ứng dụng CNTT. Đã yếu kém về trình độ ngôn ngữ và khả năng tư duy, lại thiết khả năng tự học, sự chủ động, sinh viên không thể tự tạo cho mình một phương pháp học tập tốt được. Ngay cả những sinh viên xuất sắc, giỏi, không mắc phải những điểm yếu trên cũng không dễ dàng và mau chóng tìm được cho mình một phương pháp học tập tốt. Trong khi đó, về phía các trường sư phạm, chúng ta chưa chú trọng nhiều đến vấn đề phương pháp dạy học nói chung và phương pháp học tập của sinh viên nói riêng. Việc trong bị kỹ năng CNTT trong các trường sư phạm cũng chưa được chú trọng…

Những hạn chế trên dẫn đến sinh viên học tập một cách bị động, tiếp thu một chiều theo kiểu học thuộc lòng câu chữ và nhồi nhét máy móc để đối phó với các kì thi. Học như vậy không thể có hiệu quả tốt, kỹ năng nghề nghiệp yếu, không đảm bảo được chất lượng đào tạo, không đáp ứng được yêu cầu nguồn nhân lực hiện nay.

Sinh viên trường ĐH Sư phạm TPHCM trên giảng đường. Ảnh: internet
Sinh viên trường ĐH Sư phạm TPHCM trên giảng đường. Ảnh: internet

Phải làm sáng tỏ: cái gì dạy ở phổ thông và dạy như thế nào?

Theo ông, các trường sư phạm cần phải đổi mới hoạt động đào tạo như thế nào?

TS.Nguyễn Văn Đệ: Để phù hợp cơ chế mới trong bối cảnh hội nhập, tinh thần chung là các trường, khoa sư phạm phải quán triệt quan điểm: nhà trường dạy những điều mà người học cần, xã hội cần, nền kinh tế cần, chứ không phải chỉ dạy cái mà người thầy có; đồng thời, phải làm sáng tỏ: cái gì dạy ở phổ thông và dạy như thế nào?

Trước hết, trường sư phạm phải chú trọng đào tạo cách dạy phương pháp học. Đã có một thời gian dài, chương trình đào tạo của các trường sư phạm tập trung vào chuẩn bị cho người giáo viên tương lai nắm vững hoạt động dạy, những phương pháp, kỹ năng tổ chức thực hiện hoạt động dạy. Ngày nay, sinh viên sư phạm không chỉ lo học cách dạy mà còn phải chuẩn bị tốt để dạy cách học. Vấn đề quan tâm nhất, để những giáo viên phổ thông tương lai biết dạy cách học, mỗi giảng viên sư phạm phải thường xuyên rèn luyện cho sinh viên kỹ năng tự học.

Cùng với việc chú trọng đào tạo cách dạy phương pháp học, trường sư phạm còn phải hình thành hệ thống kỹ năng nghiệp vụ sư phạm, phải tạo ra và phát triển những con người có nghề nghiệp. Công việc phải làm ngay là xác định các mặt hoạt động nghề nghiệp của giáo viên để đưa ra các năng lực cơ bản cần đào tạo ban đầu ở các trường/khoa sư phạm. Trong bối cảnh hội nhập với những biến đổi sâu sắc của nghề dạy học, theo tôi, các kỹ năng nghiệp vụ sư phạm cần hình thành ở người giáo viên phổ thông là: Kỹ năng làm việc với sách giáo khoa; kỹ năng sử dụng các thiết bị dạy học; kỹ năng tổ chức các hoạt động giáo dục; kỹ năng giao tiếp, hội nhập; kỹ năng gắn NCKH với đào tạo, gắn lý luận với thực tiễn địa phương; kỹ năng định hướng, kế hoạch hóa, kiểm tra, tự kiểm tra, đánh giá, tự đánh giá…Cùng với đó, việc bồi dưỡng kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng hợp tác và nâng cao nhận thức hoạt động phê bình và tự phê bình cũng không kém phần quan trọng.

Tóm lại, xu hướng hội nhập và yêu cầu đổi mới giáo dục đặt ra cho các trường/khoa sư phạm cần thiết phải thay đổi cách đào tạo giáo viên. Đồng thời cách bồi dưỡng năng lực cho người giáo viên tương lai phải theo chuẩn nghề nghiệp đã quy định, đặc biệt, cần chú ý đến khuyến cáo của UNESCO: Thầy giáo được đào tạo để trở thành những nhà giáo dục nhiều hơn là những chuyên gia truyền đạt kiến thức; phải làm chủ được môi trường CNTT – truyền thông mới và phải chuẩn bị về mặt tâm lý cho một sự thay đổi cơ bản về vao trò của họ.

Điều quan trọng là mỗi trường/khoa sư phạm phải biết tìm ra những giải pháp thích ứng; tận dụng được những điều có lợi từ bên ngoài, phát huy nội lực để mang lại chất lượng và hiệu quả cao nhất trong hoạt động đào tạo giáo viên.

Hiếu Nguyễn (ghi)

Nguồn: http://gdtd.vn/channel/2762/201205/Can-thay-doi-cach-dao-tao-giao-vien-1961268/

Vì sao TP.HCM không có cảnh “đạp đổ cổng trường”

Posted: 17 May 2012 03:01 AM PDT

– Ông Lê Ngọc Điệp, Trưởng phòng giáo dục, Sở Giáo dục và Đào tạo TP.HCM cho biết, 10 năm trước đây việc tuyển sinh đầu cấp tiểu học cũng căng thẳng như Hà Nội, tuy nhiên, thành phố đã có nhiều biện pháp để việc tuyển sinh nhẹ nhàng hơn.

VietNamNet đã có cuộc trao đối với ông Lê Ngọc Điệp về kinh nghiệm tuyển sinh của TP.HCM cũng như những vấn đề còn tồn tại sẽ giải quyết như thế nào.

PV: Thưa ông, là một người quản lý giáo dục, ông có cảm xúc như thế nào trước hiện tượng phụ huynh thức trắng đêm dưới trời mưa, chen nhau để giành một suất học cho con diễn ra ở nhiều trường tiểu học ở Hà Nội, còn mới đây là cao trào xô đổ cổng trường để lấy đơn xin học ở trường thực nghiệm?

Ông Lê Ngọc Điệp: Tôi rất chia sẻ nỗi lòng với phụ huynh. Ai có con cũng mong muốn có một không gian giáo dục và sự chăm sóc tốt, nên khi nhà trường đã trở thành niềm tin của phụ huynh rồi thì cha mẹ chịu vất vả gì cũng được, miễn là con được học. Đó là điều hết sức tốt đẹp.

Theo tôi, giáo dục của Nhà nước phải đáp ứng được nguyện vọng đó, làm sao cho giáo dục ngày càng tốt lên.

Với TP.HCM, tôi vẫn thường nói với các hiệu trưởng trường tiểu học là phải đặt niềm tin của phụ huynh lên hàng đầu. Khi có sự tin cậy thì nhà trường và gia đình sẽ giáo dục được đứa trẻ tốt. Còn khi đứa trẻ bị bắt buộc vào trường này chứ không phải là trường khác thì đó cũng là một nỗi khổ của gia đình.

Ở TP.HCM từng diễn ra cảnh xin học căng thẳng tương tự như vậy chưa, thưa ông?

Khoảng 10 năm trước vẫn có, là bởi vì lúc đó còn thi học sinh giỏi cấp quốc gia, cấp thành phố. Những em đoạt giải thường được vào các trường tốt ở cấp hai. Vì vậy, một số trường tiểu học (Hòa Bình , Lương Định Của, Lê Ngọc Hân, Nguyễn Đình Chiểu…) có sự đầu tư của phụ huynh rất lớn, luyện thi để các em đạt kết quả tốt khi tốt nghiệp hoặc thi học sinh giỏi. Do vậy, phụ huynh cũng chen chúc cho con vào học các trường này. Lúc đó, cũng có tình trạng ký sổ vàng để hỗ trợ nhà trường, xếp hàng, mua đơn…

Khi Bộ GD-ĐT có thay đổi lớn là bỏ kỳ thi tốt nghiệp và không thi học sinh giỏi các cấp nữa, rồi tỉ lệ HS trung bình, yếu không còn nhiều, 80% GV của thành phố trên chuẩn, học hai buổi ngày dẫn đến phụ huynh không còn lo lắng chọn trường chỉ vì dạy tốt nữa.

Tuy nhiên, bây giờ phụ huynh lại đòi hỏi một không gian giáo dục, thoáng mát, rộng rãi từ đó thúc đẩy học sinh học thích thú học tập.


Ngày nộp đơn đi học. Ảnh: Văn Chung

Như vậy, thành phố hiểu rằng phải tập trung nâng cơ sở vật chất để phụ huynh yên tâm hơn và đỡ đưa con "chạy" lung tung?

Đúng vậy, hàng loạt các trường sau khi thay đổi cơ sở vật chất lại "hút" phụ huynh đưa con đến học tập.

Ví dụ trường Trần Quốc Thảo, Quận 3, khi chưa xây lại thì phụ huynh chỉ chọn trường Mê Linh thôi, bây giờ xây lại rồi nên phụ huynh lại chỉ thích trường này.

Trường Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng vậy, khi còn những mái tôn lè tè của Thảo cầm viên thì phụ huynh chỉ chọn Đinh Tiên Hoàng, nhưng khi xây khang trang thì khác hẳn.

Như vậy, một trong những yếu tố của trường tiểu học mà phụ huynh thích là không gian giáo dục, có cây xanh, cảnh quan đẹp, rộng rãi và thứ hai là việc chăm sóc của giáo viên, các hoạt động ngoại khoá hỗ trợ cho giáo dục chứ phụ huynh không đặt yếu tố học tốt lên hàng đầu như trước đây nữa.

Nhiệm vụ nhà quản lý là nâng các trường cho đồng đều nhau, tạo điều kiện cho sự chênh lệch bớt đi. Chủ trương của thành phố là không học trái tuyến quận huyện nên cũng làm cho các trường từng quận huyện cũng nâng cấp dần lên.

Ví dụ trước đây, HS Quận 4 chạy qua Quận 1 rất nhiều, rồi Quận 8, Bình Chánh chạy lên Quận 5, nhưng bây giờ Quận 8, Bình Chánh nhiều trường rất đẹp. 

Tuy nhiên, trong một Quận thì tâm lý của phụ huynh coi trọng trường này hơn trường kia vẫn còn do nhiều yếu tố để lại, chứ tôi cho rằng, sự chênh lệch giữa các trường không khác nhau nhiều lắm.

Chẳng hạn như trường tiểu học Trần Quang Khải, phụ huynh khá giả thì không ưng trường này, trong khi phụ huynh ở quận khác thì lại đổ xô đến Trần Quang Khải. Khi Bộ GD đi dự giờ và được tôi đưa đến trường Trần Quang Khải, Bộ cũng ngạc nhiên là sao một trường ở góc khuất nẻo lại có thể dạy tốt như vậy. Lâu nay, có nhiều tiếng tăm về trường này làm cho phụ huynh không yên tâm. Vì vậy, tôi đã nói với hiệu trưởng nên mời phụ huynh và học sinh đến thăm quan trường, và đảm bảo với phụ huynh là các cháu sẽ được chăm sóc khoẻ mạnh, vui vẻ, được giáo dục tốt trong ngôi trường này.

Trường Lý Thái Tổ, Quận 8 lúc trước rất xập xệ, tôi nói với quận là huy động 4 trường khá nhất trong quận giúp đến giúp đỡ, sơn sửa lại thì có một bộ mặt khác. Tôi dự giờ một cô dạy lớp 1 thì thấy không thua cô giáo ở các trường khác. Như vậy, không phải phụ huynh chê cô giáo mà chê cảnh quan cũ kỹ quá.

Những cô hiệu trưởng sau khi đi thăm quan nước ngoài về, họ nhận ra rằng trường không chỉ là dạy chữ, mà còn tạo ra không gian, cảnh quan đẹp.

Tôi cho rằng, hiệu trưởng đóng vai trò rất lớn. Hiệu trưởng nào chăm chút cho ngôi trường thì sẽ tạo niềm tin cho phụ huynh.

Hiện thành phố đã làm rất tốt việc học sinh có hộ khẩu ở phường nào, quận nào thì học ở trường tiểu học theo quy định của quận đó. Tuy nhiên, trên thực tế cũng có những phụ huynh hộ khẩu một nơi và nhà ở một nẻo, do vậy, trường theo đúng tuyến có thể lại rất xa nhà, không thuận tiện cho việc đưa đón. Theo ông, vấn đề này có cần giải quyết khác đi không?

Các trường tiểu học ở thành phố thông tin rộng rãi ngày tuyển sinh trái tuyến, phát hồ sơ cho mọi người, có một hội đồng xét và công bố các em được học. Nếu không được thì vẫn được chuyển về trường đúng tuyến của mình, cho nên phụ huynh cũng không phải lo.

Nhìn chung, thành phố đã nỗ lực hết mình để hiện tượng học trái tuyến sẽ bớt đi. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có những phụ huynh muốn chọn trường cho con trái tuyến, thì đó cũng là điều tất nhiên, cuộc sống thì không thể theo công thức nhất định được. Trên thực tế, có nhiều bậc cha mẹ muốn đón con gần chỗ làm cho tiện, hoặc nhà ở quận 8 nhưng ông nội ở Quận 1, thì muốn con học ở Quận 1 để ông nội đưa đón cháu giùm.

Trên thực tế, người ta vẫn phải xem xét những trường hợp cụ thể. Chẳng hạn như ở Quận 5, có nhiều bệnh viện, có gia đình cha mẹ đều làm ở bệnh viện Quận 5, trực ca kíp bất thường, trong khi nhà ở xa, thì vẫn có những chính sách ưu tiên cho con em bác sĩ như vậy, tức là có những linh động hợp với lòng người chứ không phải do "chạy". Sự linh hoạt đó được Uỷ ban quận đồng ý. Ở một quận có quá nhiều bác sĩ làm việc mà không cho trái tuyến thì sẽ rất khó cho bác sĩ, suy ra làm khổ bệnh nhân. Còn chạy trường cho những thành phần không đúng thì không nên.

Nếu đứng ở góc độ người dân có con đi học thì lý tưởng nhất là họ có quyền được lựa chọn bất kỳ trường tiểu học nào cho con mà họ muốn không? Nếu muốn làm điều này thì ngành giáo dục phải thay đổi như thế nào mới thực hiện được điều đó?

Rất đúng, bất kỳ cha mẹ nào cũng muốn con học một trường mà mình mong ước, như vậy cha mẹ sẽ hạnh phúc lắm.

Ở các nước, tôi thấy người ta tuyển sinh rất khoa học, không theo địa giới hành chính. Còn ở Singapore, tuỳ theo dân số ở xung quanh trường mà quy định trong vòng bán kính bao nhiêu mét mà học sinh được học ở ngôi trường đó.

Thủ tục xin học chỉ cần hợp đồng thuê nhà (không cần hộ khẩu) là ưu tiên số 1, ưu tiên thứ hai là con của viên chức chính phủ, bận trăm công ngàn việc. Ưu tiên thứ ba là những mạnh thường quân, họ đóng góp cho phát triển nhà trường, nhiều đứa bé được hưởng lợi thì cũng nên ưu tiên chỗ học cho con họ. Ưu tiên thứ tư là phụ huynh nào đến trường làm việc ít nhất 1 tháng, theo sở trường của mình, đến cuối kỳ nhà trường chấm điểm, ai tích cực nhất thì sẽ được chọn. Điều đó tôi thấy rất thú vị, các bậc cha mẹ đã chứng tỏ với con cái tấm lòng của mình chứ không phải bằng một thế lực nào.

Tôi nghĩ, trong tuyển sinh sắp tới cũng cần thay đổi như vậy, phải có thử thách với các bậc cha mẹ muốn cho con học trái tuyến, chứng minh sự nhiệt tình đối với xây dựng nhà trường, chứ không phải dùng tiền hay mối quan hệ quen biết. Đó chính là xã hội hoá giáo dục. Kể cả đối với mạnh thường quân, không phải cứ đưa một cục tiền là xong, của cho không bằng cách cho, phải biết dùng số tiền ấy như thế nào để phát triển nhà trường.

Quan điểm riêng của ông trong giáo dục con cái như thế nào, nhất là việc chọn trường lớp?

Trước đây, khi tôi dạy còn dạy ở trường Sư phạm, tôi cho con học trường gần nhà để đảm bảo sức khoẻ, rồi lên cấp hai con tôi cũng học đúng tuyến. Khi lên cấp ba, tôi xem khuynh hướng của con là gì để khuyên cháu đi thi vào trường phù hợp, khuyến khích phát triển khuynh hướng đó, không ép buộc. Với tôi, tìm được một cô giáo lớp một nhân hậu, yêu thương trẻ con là cái phúc cho gia đình mình. Đứa trẻ được gia đình hỗ trợ và phát triển lĩnh vực mà nó yêu thích. Tôi rất vui khi có những đứa con ngoan và hiếu thảo.

Cảm ông về cuộc trao đổi này.

Hương Giang (Thực hiện)

Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/72545/vi-sao-tp-hcm-khong-co-canh--dap-do-cong-truong-.html

Dừng du học theo đề án 322

Posted: 17 May 2012 03:01 AM PDT

Dừng du học theo đề án 322

TT – Những ứng viên đã vượt qua vòng xét hồ sơ, trúng tuyển học bổng 322 du học bằng ngân sách nhà nước, nhưng chưa kịp đi học nước ngoài vừa nhận được thông báo chính thức của Bộ GD-ĐT về việc tạm ngừng du học theo đề án này.

Dừng giải quyết thủ tục học bổng 322

Quyết định đột ngột của bộ khiến nhiều ứng viên đã trúng tuyển không khỏi lo lắng, bối rối. Đây cũng là việc chưa từng xảy ra khi bộ đã tuyển sinh và có kết quả xong lại phải ngừng chương trình, buộc phải điều chuyển ứng viên sang các lựa chọn khác nằm ngoài thông báo tuyển sinh trước đó.

Thậm chí trong hội nghị tổng kết "Đề án đào tạo cán bộ tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước giai đoạn 2000-2010 và đề xuất thực hiện giai đoạn 2011-2020", bộ còn đề nghị kéo dài đề án đến hết năm 2014. Theo đề nghị của bộ, việc tuyển sinh ít nhất có thể kéo dài đến năm 2012, nhưng hiện tại năm 2012 bộ ngừng tuyển sinh và các ứng viên trúng tuyển các năm trước chưa đi học cũng bị ngừng cấp kinh phí du học theo đề án này.

Trong thông báo gửi đến từng ứng viên đã trúng tuyển, bộ đưa kế hoạch sắp xếp ứng viên đã trúng tuyển kỳ sát hạch xét hồ sơ học bổng 322 năm 2010-2011 nhưng chưa đi học theo hai hướng: thứ nhất, ứng viên chủ động nghiên cứu thông tin tuyển sinh trên trang web của bộ và của Cục Đào tạo với nước ngoài để tìm các chương trình học bổng cụ thể do bộ chủ trì tuyển sinh đi học theo các diện học bổng hiệp định, học bổng nước ngoài cấp cho Việt Nam năm học 2012-2013 phù hợp với nguyện vọng đi học của mình. Đồng thời thí sinh liên hệ với Cục Đào tạo với nước ngoài trong thời hạn quy định tuyển sinh của chương trình học bổng để được ưu tiên sắp xếp vào danh sách ứng viên được chọn cử đi học bằng nguồn học bổng các nước cấp cho Việt Nam ngay trong năm học 2012-2013.

Thứ hai, đối với ứng viên tiến sĩ đang là giảng viên đại học, cao đẳng hoặc được xét tuyển tiến sĩ để về làm giảng viên; ứng viên thạc sĩ có học lực đạt loại giỏi đang là giảng viên đại học, cao đẳng hoặc được xét trúng tuyển đi học để về làm giảng viên được cơ sở đào tạo nước ngoài đồng ý tiếp nhận đào tạo thẳng theo chương trình tiến sĩ sẽ được chuyển sang xử lý trúng tuyển theo học bổng đề án 911 đào tạo trình độ tiến sĩ cho giảng viên đại học.

Bản thông báo do Thứ trưởng Bùi Văn Ga ký cũng nêu rõ ứng viên phải gửi nguyện vọng đăng ký xử lý học bổng theo một trong hai hướng trên tới Cục Đào tạo với nước ngoài theo địa chỉ tuyensinh@vied.vn trước ngày 1-6 để kịp xử lý. Theo lãnh đạo bộ, quá thời hạn trên bộ sẽ không giải quyết bất cứ trường hợp nào và "hiểu rằng ứng viên không còn nhu cầu đi học tập ở nước ngoài nữa".

NGỌC HÀ

Nguồn: http://tuoitre.vn/Giao-duc/492141/Dung-du-hoc-theo-de-an-322.html

Học tập “phong cách học tập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Posted: 17 May 2012 03:01 AM PDT

(GDTĐ) – Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh không những là tấm gương sáng ngời về tư tưởng, đạo đức, trí tuệ, tài năng, nhân cách và lối sống mà còn là một mẫu mực về phương pháp và phong cách. Phong cách Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ di sản vô giá mà người đã để lại cho dân tộc và nhân loại.

Trong đó, phong cách học tập là một trong những nội dung cơ bản trong phong cách Hồ Chí Minh. Nghiên cứu ngày càng sâu về phong cách học tập Hồ Chí Minh, chúng ta càng thấy rõ hơn tầm vĩ đại của Người với tư cách là nhà tư tưởng lớn, nhà chiến lược thiên tài, nhà hoạt động thực tiễn lỗi lạc và là tấm gương sáng ngời đã để lại những bài học quý giá trở thành chuẩn mực cho việc xây dựng và rèn luyện phong cách học tập của người cán bộ cách mạng, bồi dưỡng nhân cách cho các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau. Phong cách học tập của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện ở động cơ học tập trong sáng, thái độ học tập đúng mực và phương pháp học tập khoa học, sáng tạo với phương châm lấy tự học làm trung tâm. Phương pháp đó là sự thống nhất biện chứng giữa động cơ, thái độ, nội dung và phương pháp học tập.

Bác Hồ thăm đại biểu giáo viên toàn miền Bắc (1958) và dạy:
Bác Hồ thăm đại biểu giáo viên toàn miền Bắc (1958) và dạy: “Trường học của chúng ta là trường học của chế độ dân chủ nhân dân, nhằm mục đích đào tạo những công dân và cán bộ tốt, người chủ tương lai của nước nhà… Nhà trường phải gắn liền với thực tế của nước nhà, với đời sống nhân dân”.

Phong cách học tập Hồ Chí Minh là một cống hiến quan trọng, là đóng góp to lớn vào kho tàng lý luận dạy – học của nước ta; trở thành một triết lý học tập; một giá trị nhân sinh cao đẹp, tiêu biểu cho trí tuệ, tâm hồn và phong cách Việt Nam – phong cách đó rất gần gũi, dung dị mà sâu sắc; uyên bác mà dễ hiểu, dễ tiếp thu và chuyển hóa, có thể học tập và làm theo. Phong cách học tập Hồ Chí Minh thấm nhuần triết lý hành động của phương Đông, đồng thời được soi sáng bởi thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin nên rất đa dạng, phong phú, sinh động nhưng sâu sắc. Phong cách học tập đó không những tạo cơ sở khoa học mà còn là tấm gương mẫu mực và thiết thực cho mọi người học tập và tự học tập suốt đời để vươn lên không ngừng. Phong cách đó không chỉ là lý luận mà còn là cách thức và phương pháp soi đường và chỉ dẫn cho chúng ta học tập và noi theo.

Nét đặc trưng trong phong cách học tập Hồ Chí Minh mang tính độc đáo, đó là phong cách học tập hàm chứa những yếu tố rất giản dị, đại chúng với động cơ, mục đích cao cả, trong sáng mà thiết thực; với thái độ cầu thị, khiêm tốn nhưng lại đòi hỏi rất cao và hết sức nghiêm túc; với phương pháp học tập khoa học mà dễ nhớ, dễ hiểu, phù hợp với mọi đối tượng, lứa tuổi… Cụ thể là:

Một là, động cơ học tập trong sáng vì mục tiêu, lý tưởng cao cả của cách mạng, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì sự tiến bộ của nhân loại. Quan tâm, chăm lo tới sự nghiệp giáo dục của nước nhà, Hồ Chí Minh luôn kêu gọi mọi người thi đua học tập, coi học tập là nhiệm vụ thường xuyên, suốt đời, "còn sống thì còn phải học". Và trong việc học tập Người đặc biệt chú trọng đến động cơ, thái độ học tập: "Muốn học tập có kết quả thì phải có thái độ đúng và phương pháp đúng" [1]. Tức là, trước hết phải có động cơ học tập đúng để xác định rõ và đúng xu hướng nghề nghiệp chân chính của mình là vì mục tiêu, lý tưởng cao cả của cách mạng, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì con người và vì sự tiến bộ của chính bản thân mình. Theo Hồ Chí Minh, mục đích của việc học tập là: "Học để làm việc, làm người, làm cán bộ, học để phụng sự đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại "[2 ].

Động cơ chính là động lực bên trong của mỗi con người, sự thể hiện nó được biểu hiện qua hành vi, thái độ và việc làm của con người đó. Do vậy, chỉ khi nào xác định được động cơ học tập đúng đắn thì mỗi chúng ta mới có thái độ và phương pháp học tập đúng đắn và khoa học. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào người học cũng phải nỗ lực, cố gắng và phải xây dựng cho mình một động cơ học tập đúng đắn; đồng thời không cho phép tồn tại những tư tưởng cơ hội, vụ lợi, thực dụng, ích kỷ cá nhân, hay những biểu hiện lười học tập, ngại rèn luyện, hoặc là dùng mọi thủ đoạn nhằm đạt kết quả cao trong học tập. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: "Học để sửa chữa tư tưởng, học để tu dưỡng đạo đức cách mạng, học để tin vào đoàn thể, vào nhân dân, vào tương lai của dân tộc và tương lai của cách mạng, học để hành"; "học để làm việc"; chứ không phải học để "làm ông nọ bà kia", hay là để "làm quan cách mạng"… cho nên, "tất cả những động cơ học tập không đúng đắn đều phải tẩy trừ cho sạch"[ 3].

Với tầm nhìn xa trông rộng, Hồ Chí Minh đã thấy rõ vai trò của việc học tập đối với người cán bộ cách mạng. Trong nhiều lần nói chuyện với giới trí thức, Bác thường nhấn mạnh tầm quan trọng của công việc học tập: "Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời". Trên cơ sở nắm bắt được xu thế của thời đại và khả năng dự báo được tương lai, Người đã chỉ rõ: "Tình hình thế giới và trong nước luôn luôn biến đổi, công việc của chúng ta nhiều và mới, kỹ thuật của thế giới ngày càng tiến bộ, nhưng sự hiểu biết của chúng ta có hạn. Muốn tiến bộ kịp sự biến đổi vô cùng tận, thì chúng ta phải nghiên cứu, học tập"[ 4] và "nếu không chịu khó học thì không tiến bộ được … không chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị đào thải, tự mình đào thải mình". Người thường dẫn câu nói của Lênin "Học, học nữa, học mãi" để nhắc nhở bản thân, để giáo dục cán bộ, đảng viên và mọi người.

Bản thân Hồ Chí Minh đã nêu gương mẫu mực về động cơ học tập trong sáng. Người học tập với một động cơ hết mực trong sáng và với một ý nguyện thật cao cả; việc học tập đó không chỉ dừng lại ở sự mở rộng vốn hiểu biết, nâng cao trình độ tri thức và tiến bộ của bản thân, đó cũng hoàn toàn không phải vì bằng cấp nọ, học vấn kia… mà quan trọng hơn là để tìm ra con đường cứu nước, cứu dân, làm cho đất nước độc lập, nhân dân được tự do, ấm no, hạnh phúc. Người nói: "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành"[ 5]. Động cơ và mục đích này luôn luôn trở thành động lực thường xuyên và trực tiếp thôi thúc Bác một cách mạnh mẽ trong việc học tập, tiếp thu tri thức nhân loại.

Hai là, thái độ học tập đúng đắn, khiêm tốn, say mê, cầu thị, chân thành, không kiêu ngạo, không dấu dốt. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về tinh thần học tập suốt đời, về thái độ khiêm tốn, say mê và cầu thị, không dấu dốt trong học tập.. Cho đến những năm cuối đời mình, Người vẫn chú trọng, không sao nhãng việc học tập. Tháng 5-1966, trong một buổi nói chuyện với các đồng chí đảng viên mới ở Hà Nội, Người đã nói: "Bác thường nghe nói có đồng chí mới 40 tuổi mà đã cho mình là già nên ít chịu học tập. Nghĩ như vậy là không đúng, 40 tuổi chưa phải là già. Bác đã 76 tuổi nhưng vẫn cố gắng học thêm. Chúng ta phải học và hoạt động cách mạng suốt đời. Còn sống thì còn phải học, còn phải hoạt động cách mạng"[ 6]. Người cho rằng: "Không ai có thể tự cho mình là đã biết đủ rồi, biết hết rồi" và "người nào tự cho là đã biết đủ rồi, thì người đó dốt nhất", mỗi người phải biết khiêm tốn, chớ "kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số một của học tập". Đức tính khiêm tốn yêu cầu, đòi hỏi con người ta không được thỏa mãn với vốn kiến thức của mình và cũng không được phép bằng lòng với những thành tích đã đạt được.

Ba là, phương pháp học tập khoa học, sáng tạo và hiệu quả theo phương châm "lấy tự học làm cốt". Việc xác định đúng động cơ và thái độ trong học tập là nội dung hết sức quan trọng và cần thiết, nhưng để hiện thực hóa động cơ, thái độ đó; đòi hỏi tất yếu khách quan là phải xây dựng được phương pháp học tập khoa học. Vì vậy, trong suốt quá trình hoạt động cách mạng và thông qua quá trình đó, Người đã hình thành cho mình một phương pháp học tập khoa học, đó là con đường tự học, với phương châm "lấy tự học làm cốt" và phải biết "tự động học tập". Hồ Chí Minh chỉ rõ: tự học, tự rèn, tự tu dưỡng cũng giống như "mài ngọc luyện vàng", "ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong". Bởi vì, theo Người: "Năng lực của con người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có, mà một phần lớn do công tác, do luyện tập mà có"[ 7].

Trong tự học phải xác định đúng nội dung tự học, "học cái gì"? Theo Hồ Chí Minh, nội dung tự học rất rộng lớn, bao gồm: học tập lý luận, chuyên môn nghiệp vụ, văn hoá, đạo đức… trong đó, Người luôn coi trọng việc học tập lý luận; bởi lẽ "không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng". Người luôn đặt ra yêu cầu: "Mỗi cán bộ, đảng viên phải học lý luận, phải đem lý luận áp dụng vào công việc thực tế. Phải chữa cái bệnh kém lý luận, khinh lý luận và lý luận suông"[8 ]. Mỗi người phải thường xuyên tự tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất nhân cách và đạo đức cách mạng.

Muốn tự học thành công phải có kế hoạch cụ thể, khoa học. Kế hoạch học tập đó không phải là một sự tự do, tùy ý mà được xây dựng một cách chủ động, trên cơ sở căn cứ vào tình hình công việc, khả năng, thời gian và điều kiện phù hợp. Trong điều kiện thời gian không cho phép thì phải nắm cho được những vấn đề cơ bản,"phải thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều", "quý hồ tinh bất quý hồ đa". Đặc biệt, theo Người, phải tự nguyện, tự giác; tích cực, chủ động và kiên trì, bền bỉ, quyết tâm thực hiện kế hoạch đến cùng, phải xem công việc học tập cũng là một nhiệm vụ mà người cán bộ cách mạng phải hoàn thành cho được, do đó mà tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học tập; nêu cao tinh thần chịu khó, cố gắng không lùi bước trước bất kỳ khó khăn nào trong việc học tập.

Phải triệt để tận dụng mọi hoàn cảnh, mọi phương tiện, mọi hình thức để học. Người vạch ra: "Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học ở nhân dân. Không học nhân dân là một thiếu sót rất lớn"[ 9]; "Học tập trong việc làm hằng ngày, trong việc lớn cũng như việc nhỏ". Học tập trong kinh nghiệm thành công cũng như kinh nghiệm thất bại. Học đến đâu phải ra sức luyện tập thực hành đến đó, "học mà không hành thì vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy". Học đi đôi với hành cùng một lúc sẽ hình thành ở người học cả tri thức lẫn kỹ năng; do đó, "hành" trở thành một hình thức chính của "học", quá trình "học" xảy ra trong chính quá trình "hành". Trong buổi nói chuyện với cán bộ giảng dạy và sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (Ngày 20/10/1964), Người đã khuyên: Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau.

Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ lúc thanh niên cho đến khi trở thành lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, thành người chiến sĩ xuất sắc của phong trào cộng sản quốc tế là một tấm gương sáng ngời về tinh thần tự học, lấy tự học làm phương thức chủ yếu để nâng cao trình độ về mọi mặt của bản thân. Sự thành công của Người trong việc tiếp thu chân lý vĩ đại của chủ nghĩa Mác – Lênin và trong việc sáng tạo sách lược đấu tranh cách mạng ở một nước thuộc địa nửa phong kiến cũng chính là kết quả của một quá trình tự học kiên trì, gian khổ trong cuộc đấu tranh cách mạng liên tục, kiên cường. Người đã tổng kết những kinh nghiệm quý báu về quá trình học tập – tự học suốt cả đời mình và đã để lại cho chúng ta những bài học vô giá. Tuy nhiên, tự học ở Hồ Chí Minh không phải là một sự ngẫu hứng, tuỳ ý, vô nguyên tắc… Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về tinh thần tự học, lấy tự học làm cốt, làm phương thức chủ yếu để nâng cao trình độ mọi mặt của bản thân. Song tự học ở Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là một sự ngẫu hứng, tùy ý vô nguyên tắc… mà tự học ở Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành một khoa học, một nghệ thuật, một triết lý nhân văn sâu sắc với một kế hoạch cụ thể, chặt chẽ, khoa học; với một ý chí và quyết tâm bền bỉ, dẻo dai, tinh thần sáng tạo, tranh thủ mọi lúc, mọi nơi để học.

Thực tiễn sống động trên là minh chứng hùng hồn, rõ ràng nhất về ý thức, thái độ và cách thức học tập đúng đắn của Người; thể hiện sâu sắc và rõ nét một phong cách học tập khoa học, mẫu mực. Thế hệ hôm nay có thể tìm thấy trong phong cách học tập đó tinh thần học tập không mệt mỏi; không tư lợi, học để phụng sự cách mạng, phụng sự nhân dân; học tập một cách thông minh, sáng tạo; học ở sách vở, học tập thực tiễn, ở quần chúng… Ngoài ra, phong cách học tập Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tế. Phương pháp học tập của Người là tùy theo điều kiện, thời gian mà thực hiện từng bước và có hiệu quả; đặc biệt, phải lấy tự học làm chính. Phải hết sức khiêm tốn, không dấu dốt.

Phong cách học tập của Người là một cống hiến quan trọng, đóng góp to lớn vào kho tàng lí luận dạy học của nước ta; trở thành một triết lí học tập, một giá trị nhân sinh cao đẹp tiêu biểu cho trí tuệ tâm hồn và phong cách Việt Nam – rất gần gũi, dung dị mà sâu sắc; uyên bác mà dễ hiểu, dễ tiếp thu và chuyển hoá. Phong cách học tập của Hồ Chí Minh thấm nhuần triết lý hành động của phương Đông, đồng thời soi sáng bởi thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin nên rất đa dạng, phong phú, sinh động nhưng sâu sắc. Phong cách đó đã tạo cơ sở khoa học để mọi người giáo dục và tự giáo dục suốt đời để vươn lên không ngừng.

 

Nguyễn Văn Thanh

  (Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng)

 

———————————

Tài liệu tham khảo

 1. Hồ Chí Minh, Về vấn đề học tập, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1977, tr. 84 – 85.

 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 2, Nhà xuất bản Chính Trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.94.

 2. Hồ Chí Minh, Sđd., t.4, tr.161-162.

3. Hồ Chí Minh, Sđd., t.5, tr. 235; 684, 

4. Hồ Chí Minh, Sđd., t.6, tr.50; 52.

 5. Hồ Chí Minh, Sđd., t.8, tr.497.

6. Hồ Chí Minh (1990), Về vấn đề giáo dục, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, tr.67.

7. Những lời Bác dạy, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 1975, tr.43.

Nguồn: http://gdtd.vn/channel/3062/201205/Hoc-tap-phong-cach-hoc-tap-cua-Chu-tich-Ho-Chi-Minh-1961267/

10 nước có hệ thống giáo dục ĐH tốt nhất

Posted: 17 May 2012 03:01 AM PDT

Universitas 21 lần đầu tiên công bố bảng xếp hạng các quốc gia, vùng lãnh thổ có hệ thống giáo dục ĐH tốt nhất.
Mỹ là nước có hệ thống giáo dục ĐH tốt nhất thế giới - Ảnh: Reuters

Các tiêu chí xếp hạng

Để có bảng xếp hạng trên, ĐH Melbourne (Úc) thuộc Universitas 21, mạng lưới 23 trường ĐH có nhiều nghiên cứu trên thế giới, phân tích các dữ liệu gần đây của 48 quốc gia, vùng lãnh thổ dựa trên 20 tiêu chí. Những tiêu chí này được chia làm 4 nhóm: nguồn đầu tư (từ chính phủ và tư nhân); đầu ra (nghiên cứu khoa học và tác động của nó, việc đáp ứng nhu cầu thị trường lao động); kết nối (với mạng lưới ĐH quốc tế); môi trường (chính sách, sự điều hành của chính phủ, sự đa dạng và cơ hội để người dân tham gia học tập). Yếu tố dân số cũng được xem xét để đánh giá, xếp hạng.

Theo đó, 10 nước có hệ thống giáo dục ĐH tốt nhất trong 48 nước và vùng lãnh thổ nói trên lần lượt là: Mỹ, Thụy Điển, Canada, Phần Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Na Uy, Úc, Hà Lan và Anh. Một số nước, vùng lãnh thổ ở châu Á có mặt trong bảng xếp hạng này là: Singapore (vị trí 11), Nhật Bản (20), Đài Loan (21), Hàn Quốc (22), Malaysia (36), Trung Quốc (39), Thái Lan (41) và Indonesia (47).

Tuy nhiên, nếu xét theo từng nhóm thì Mỹ không phải lúc nào cũng đứng đầu trong 48 nước, vùng lãnh thổ nói trên. Chẳng hạn, những nước có mức đầu tư của chính phủ cho giáo dục ĐH chiếm GDP cao nhất lần lượt là Phần Lan, Na Uy và Đan Mạch. Tuy nhiên, nếu gộp cả phần đầu tư tư nhân, vị trí cao nhất lại thuộc về Mỹ, kế đến là Hàn Quốc, Canada và Chile. Những nước đầu tư nhiều nhất cho nghiên cứu khoa học là Đan Mạch, Thụy Điển và Thụy Sĩ. Nhóm các nước có những nghiên cứu khoa học tạo ảnh hưởng nhiều nhất lần lượt là Thụy Sĩ, Hà Lan, Mỹ, Anh và Đan Mạch. Các nước có tỷ lệ người tham gia giáo dục ĐH cao nhất là Hàn Quốc, Phần Lan, Hy Lạp, Mỹ, Canada và Slovenia. Nhóm nước, vùng lãnh thổ có nhân lực trình độ ĐH chiếm nhiều nhất trong lực lượng lao động gồm Nga, Canada, Israel, Mỹ, Ukraine, Đài Loan và Úc. Những nước có tỷ lệ sinh viên quốc tế/tổng số sinh viên cao nhất là Úc, Singapore, Áo, Anh và Thụy Sĩ. Trong khi đó, những nước có sự phối hợp nghiên cứu quốc tế nổi bật nhất lại là Indonesia, Thụy Sĩ, Đan Mạch, Bỉ và Áo.

Giúp hoạch định chính sách giáo dục

Đánh giá về ảnh hưởng của bảng xếp hạng mới, Universitas 21 nhấn mạnh trong thông cáo của mình: "Nhằm đề cao tầm quan trọng của việc tạo ra môi trường vững mạnh cho các cơ sở giáo dục ĐH đóng góp vào phát triển kinh tế và văn hóa, cung cấp chương trình chất lượng cao cho sinh viên cũng như hỗ trợ các viện, ĐH thu hút sinh viên quốc tế". Trên trang tin www.universityworldnews.com, Giáo sư Ross Williams – người đứng đầu cuộc nghiên cứu bảng xếp hạng Universitas 21 – cho rằng hiện có một số bảng xếp hạng toàn cầu giáo dục ĐH được đánh giá cao nhưng không phản ảnh hết hệ thống giáo dục ĐH của một quốc gia, vùng lãnh thổ. Do đó, bảng xếp hạng Universitas 21 sẽ hỗ trợ các chính phủ trong việc hoạch định những chính sách liên quan đến giáo dục ĐH.

Thông tin chi tiết về bảng xếp hạng mới của Universitas 21 được đăng tại http://www.universitas21.com/collaboration/details/48/u21-rankings-of-national-higher-education-systems.

Minh Trung

Nguồn: http://www.thanhnien.com.vn/Pages/20120516/10-nuoc-co-he-thong-giao-duc-DH-tot-nhat.aspx

Đẩy mạnh giáo dục về chủ quyền biển, đảo

Posted: 17 May 2012 03:00 AM PDT

Bộ GD-ĐT vừa có công văn yêu cầu các cơ sở giáo dục có hành động thiết thực nâng cao nhận thức về vị trí, tầm quan trọng của biển, hải đảo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như tôn vinh những giá trị của đại dương đối với sự sống của nhân loại và tính cấp thiết của việc bảo vệ đại dương cho cán bộ, giáo viên, giảng viên, học sinh, sinh viên.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chủ quyền biển; lồng ghép các nội dung giáo dục tuyên truyền vào chương trình giáo dục các cấp học, các trình độ đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân.

Tuệ Nguyễn

 

Nguồn: http://www.thanhnien.com.vn/Pages/20120517/Day-manh-giao-duc-ve-chu-quyen-bien-dao.aspx

Comments