Nghề Giáo - Giáo viên - Giáo dục

Nghề Giáo - Giáo viên - Giáo dục


Giáo viên đi… cày!

Posted: 12 Apr 2012 02:25 AM PDT

Gần phân nửa thầy cô ở vùng cao là giáo viên hợp đồng, lương chỉ 900.000 đến
1 triệu đồng/tháng. Vì vậy, ngoài giờ lên lớp, họ phải làm thêm đủ thứ việc như
cày ruộng, hái măng… để có thêm thu nhập.

"Sinh con được ba tháng là em phải gửi con cho mẹ rồi lên đây ngay. Đêm đêm
ngực đau nhức vì căng sữa, nằm nhớ con em khóc suốt. Giờ thì bé đã tám tuổi rồi.
Mỗi năm nhiều nhất chỉ về được hai lần…" – cô giáo Lê Thị Hương ở bản Ko Kài, xã
Trung Lý, huyện Mường Lát (Thanh Hóa) kể.

Phận giáo viên hợp đồng

Cô Hương có chồng ở Quảng Xương, cách trường học mà cô đang cắm chốt gần 200
km, đường sá đi lại vô cùng khó khăn. Cô là giáo viên hợp đồng, dạy lớp 2, lương
chỉ có 900.000 đồng/tháng.

Hoàn cảnh cô Hương hay nhiều giáo viên khác là khá tiêu biểu cho hầu hết các
giáo viên hợp đồng mà tôi đã gặp trên các huyện vùng cao Thanh Hóa này.

Ngoài giờ lên lớp, thầy Vi Văn Hạch, giáo viên Trường Tiểu học Trung Sơn (xã Trung Sơn, Mường Lát, Thanh Hóa), phải đi cày ruộng để có thêm thu nhập cải thiện cuộc sống. Ảnh: Nguyễn Dân

Ở Trường THCS Hiền Chung (xã Hiền Chung, huyện Quan Hóa), có cô đang bế con
hai, ba tuổi, chồng chật vật mấy tháng mới lên thăm một lần. Đến giờ lên lớp,
các cô phải gửi cháu bé cho các học sinh lớp lớn chưa đến giờ học bế hộ ngồi ở
cuối lớp. Mỗi khi bé đói khóc đòi bú, cô phải ngừng dạy cho con bú rồi trở lên
bục giảng tiếp tục công việc gieo chữ của mình.

Tôi gặp thầy Vi Văn Hạch ở bản Pượn (xã Trung Sơn, huyện Quan Hóa) khi thầy
đang xắn quần cày ruộng để có thêm cái ăn. Bốn thầy cô khác, có người ra suối
bắt cá, có người vào rừng hái măng, có người vót nan… "Phải như thế chứ với
900.000 đồng một tháng thì làm sao đủ mua gạo và các nhu yếu phẩm khác. Rồi còn
phải tằn tiện để dành từng đồng mới có tiền xe cộ về xuôi" – thầy Hạch nói với
giọng buồn buồn.

Tôi đến nhà lưu trú các thầy cô vào buổi trưa, nhằm lúc các giáo viên đã dọn
ra bữa cơm. Trong mâm chỉ có đĩa măng xào và một ít cá vụn. Thầy Hà Văn Quang
cười: "May quá, hôm nay có khách đến, em vừa đi suối về để cải thiện món tươi".
Rồi thầy kể về cuộc sống của các giáo viên ở các điểm trường khác, nơi chỉ có
một, hai lớp không có nhà lưu trú. Giáo viên phải ở chung với nhà dân trong bản,
gạo gửi luôn cho bà con để nấu ăn chung. Thời điểm này đúng mùa giáp hạt, hầu
hết người dân nơi đây phải ăn cơm độn, dân ăn gì thì các thầy cô phải ăn chung
cái đó. Ngoài những giờ lên lớp hay soạn giáo án, thầy cô còn giúp chủ nhà cùng
lên nương làm rẫy…

Phía sau con chữ

Chánh Văn phòng UBND huyện Quan Hóa Hà Văn Ca bức xúc nói: "Theo quy định,
ở dưới xuôi cứ 22,5 học sinh thì có một giáo viên biên chế, chiếu cố vùng cao
dân cư rải rác, con số này là 18,5. Nhưng con số này cũng chẳng phản ảnh được
thực tế. Anh tính đường đèo núi, người dân tộc ở rải rác các bản xa, nếu tập
trung trường lại thì các em không thể đi học vì phải trèo đèo lội suối cả chục
cây số. Vì thế phải mở các điểm trường tại các thôn bản. Có lớp chỉ có 5-7 học
sinh cũng phải có một giáo viên. Thầy cô giáo ăn ngủ tại bản luôn".

Rồi ông Ca nhẩm tính: "Lương giáo viên biên chế hệ số X nhân với 830.000 đồng
cộng với hệ số vùng cao cộng với trợ cấp lưu trú, tất cả chỉ trên dưới 5 triệu
đồng. Trong khi đó giáo viên hợp đồng nếu cao đẳng thì được 900.000 đồng, đại
học thì được 1 triệu đồng. Ngoài ra không có gì khác. Con số 18,5 quái ác khiến
lượng giáo viên hợp đồng ở đây chiếm rất cao. Toàn huyện có khoảng 700 giáo
viên. Theo quy định "con số 18,5" ấy, huyện phải hợp đồng thêm đến 400 giáo viên
nữa mới đủ".

Tỉ lệ này cũng khá khớp đúng khi tôi đến Trường THCS Hiền Chung. Tổng số giáo
viên, công nhân viên là 18 người, trong đó có tám giáo viên là hợp đồng.

"Hiện nay gần như tất cả giáo sinh ra trường ai cũng dạy hợp đồng, không ai
được biên chế" – Trưởng phòng Giáo dục huyện Quan Hóa Mai Bá Thúy cho biết. "Anh
nghĩ coi, cùng làm một việc như nhau. Một bên 4-5 triệu đồng, một bên chỉ có 1
triệu đồng. Chúng tôi kêu suốt mà trên có nghe đâu. Để đỡ đần phần nào chúng tôi
phải ghép lớp, dồn tiết cho các giáo viên hợp đồng để họ có thêm 600.000-700.000
đồng/tháng. Các khoản đóng góp đi nghỉ dưỡng hoặc liên hoan, nhà trường động
viên các giáo viên biên chế gánh vác hộ giáo viên hợp đồng" – Hiệu phó Trường
THCS Hiền Chung Lê Mạnh Hùng nói.

***

Rẻo cao Mường Lát. Những con đường quanh co khúc khuỷu qua những con suối,
con nguồn, những đàn em nhỏ vẫn tung tăng ríu rít đến trường. Những bản người
Mông, người Mường heo hút chơ vơ trên sườn núi xa xôi, tiếng trẻ con đọc chữ vẫn
ê a trong lớp. Những hình ảnh, âm thanh tươi đẹp ấy khiến một người miền xuôi
như tôi thật sự xúc động. Nhưng để duy trì được những hình ảnh đẹp này chẳng lẽ
chúng ta cứ động viên lòng yêu nghề suông của các thầy cô giáo mãi hay sao? Câu
hỏi ấy cứ ám ảnh tôi suốt thời gian cưỡi xe trên cung đường "ngàn thước lên cao,
ngàn thước xuống" để về xuôi…

Giáo viên "nghĩa vụ"

Nỗi niềm nhà giáo vùng cao còn vấn đề bức xúc khác mà lâu nay ngành giáo dục
chưa giải quyết được. Đó là trường hợp giáo viên theo "tiêu chuẩn nghĩa vụ".
Người tại địa phương được đào tạo đủ chuẩn làm giáo viên chiếm tỉ lệ rất thấp
cho nên đa số giáo viên ở đây được điều động từ giáo viên ở các huyện miền xuôi
như Hậu Lộc, Quảng Xương, Nông Cống, Bỉm Sơn… lên giảng dạy.

Trước đây, người ta vẫn thường áp dụng cái nghĩa vụ này là năm năm, nghĩa là
những giáo viên dưới xuôi lên vùng cao dạy năm năm nghĩa vụ xong sẽ được cho về.
Nay thì không ai nhắc tới thời hạn nghĩa vụ đó cả. Vì vậy rất nhiều thầy cô giáo
đều có thâm niên bảy năm, chín năm hay lâu hơn nữa bám trụ ở núi rừng. Thầy Phạm
Văn Dũng (Trường THCS Hiền Chung, xã Hiền Chung, Quan Hóa) có vợ và con ở dưới
xuôi, cả năm thầy mới về thăm nhà được một lần. Cô Ngân Thị Với (Trường Tiểu học
Trung Lý II, xã Trung Lý, huyện Mường Lát) có chồng và con nhỏ ba tuổi đang ở
dưới xuôi nhưng hai năm cô mới có điều kiện về thăm chồng con

  • Theo Nguyễn Dân (Pháp luật TP.HCM)


Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/67977/giao-vien-di----cay-.html

Giáo dục giới tính: Người lớn né tránh, trẻ “lãnh đủ”

Posted: 12 Apr 2012 02:25 AM PDT

Như Dân trí đưa tin, ngày 6/4 một nữ sinh lớp 10 ở Bến Tre chuyển dạ và sinh con ngay sau giờ học môn Thể dục. Mới đây, một nữ sinh 15 tuổi ở Nghệ An được phát hiện là sinh con từ năm 2011, làm mẹ ở tuổi 14. Chưa hết, hiện nay Công an tỉnh Bạc Liêu cũng đang điều tra việc một học sinh học lớp 8 đang mang bầu hơn 7 tháng…

Từ những học sinh (HS) được đánh giá là ngoan ngoãn, học tốt nhưng do quá thiếu kiến thức về giới tính, kỹ năng bảo vệ mình nên các em phải làm mẹ bất đắc dĩ ở độ tuổi quá nhỏ trong sự ngỡ ngàng, không tin nổi của gia đình, thầy cô. Điều đó phần nào cho thấy việc giáo dục giới tính (GDGT) cho trẻ còn quá nhiều bất cập.

Bà Nguyễn Thị Thanh Thúy, chuyên gia của Hội quán Các bà mẹ TPHCM: "Dạy nửa vời, trẻ dễ ngộ nhận"

Ba năm nay rong ruổi đến khắp các tỉnh thành tổ chức chương trình tư vấn cho HS, chúng tôi nhận ra các em rất "đói" thông tin về sức khỏe giới tính, sinh sản dù các em được tiếp cận và đọc rất nhiều thứ.

Tôi từng gặp trường có em HS tiểu học không dám ngủ trưa ở lớp vì sợ tinh trùng của bạn trai bò sang "tấn công". Em được học rằng tinh trùng kết hợp với trứng sẽ có thai nhưng điều đó diễn ra thế nào lại mù tịt do được học chưa đến nơi, dạy theo kiểu nửa vời nên dẫn đến việc các em bị ngộ nhận.

Lẽ ra các em phải được trang bị các kiến thức từ sớm thì chúng ta lại dạy theo kiểu "chạy theo". Khi phát hiện trẻ có vấn đề hay sự việc đã rồi mới bắt đầu "chạy", mà chạy cũng không đúng cách.

Phụ huynh (PH) và giáo viên cũng e ngại khi nói chuyện về giới tính, tình dục với trẻ. Thế nên rất cần sự hỗ trợ của các tổ chức, qua đó để tập huấn và tạo nên sự chuyển giao.

Bố mẹ phải là người đầu tiên trang bị các kiến thức cần thiết cho con. Nếu việc nói ra thật sự khó khăn, PH có thể hướng dẫn con đọc sách về kiến thức giới tính, sinh sản. Khi con thắc mắc thì cần giải đáp một cách chân thành chứ không được né tránh.

Ngoài ra, cần hướng con đến thái độ sống, giá trị sống mang tính văn hóa. Điều đó sẽ góp phần giúp trẻ cao ý thức bảo vệ giá trị bản thân và tăng sức đề kháng trước những cạm bẫy.

BS Đỗ Hồng Ngọc, nguyên Giám đốc Trung tâm truyền thông Giáo dục sức khỏe TPHCM: "GDGT cho trẻ phải bắt đầu từ nhỏ"

Việc GDGT cũng như việc ăn, ngủ…, trẻ phải được trang bị các kiến thức từ nhỏ để biết chăm sóc, yêu quý tất cả các bộ phận trên cơ thể mình. Sao người lớn lại hay cho rằng đó là chuyện "bậy bạ". Bố mẹ gạt đi, né tránh, hẹn chờ đến tuổi sẽ biết làm trẻ thấy không được tôn trọng nên lại tìm hiểu qua bạn bè, trên mạng… rất nguy hại.

Cơ hội đế nói chuyện về giới tính, tình yêu với trẻ rất nhiều như khi dự một đám cưới hay hàng xóm, người quen sinh nở… Bố mẹ phải biết nắm lấy những cơ hội đó để chia sẻ với con.

Điều cấn nhất là thái độ tôn trọng, thấu cảm của người lớn trước những thắc mắc của con trẻ. Sau đó, cha mẹ cần trang bị cho mình các kiến thức để tự tin nói chuyện với con. Người lớn cần thẳng thắn, chân tình, cởi mở để cùng trao đổi các kiến thức về giới tính một cách khoa học với trẻ. Không phải đến khi con đã dậy thì mà nên bắt đầu suốt giai đoạn tuổi thơ cũng như tuổi tiền dậy thì.

Chúng ta không thể lò dò đi theo suốt này để quản lý, canh chừng. Mà trách nhiệm của PH là trang bị cho con những nội lực cần thiết để tự bước đi và tự chịu trách nhiệm trước với con đường, lựa chọn của mình.

Đặc biệt, GDGT cần một chương trình mang tính hệ thống, toàn diện, thống nhất từ gia đình, nhà trường, xã hội để tránh tình trạng "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược".

Ông Nguyễn Vũ Nguyên, Tổng giám  đốc Trung tâm Đào tạo Tài năng trẻ Châu Á Thái Bình Dương: “Người lớn cần biết cách nói chuyện với trẻ”

Nền tảng của việc GDGT là giúp trẻ nhận biết được bản thân. Trong khi thực tế rất nhiều HS, SV chưa biết cách chăm sóc, vệ sinh thân thể đúng cách chứ khoan đã nói đến những vấn đề sâu xa.

Người lớn cần biết cách nói chuyện với trẻ. Trước hết cần phải xem những tò mò, thay đổi ở trẻ là bình thường để trấn an tâm lý con. Hiện nay, nhiều trẻ dậy thì sớm khi mới 9 - 10 tuổi, các em lo lắng khi thay đổi tâm sinh lý vì không có sự chuẩn bị từ trước. Lúc này PH có thể động viên: "Con phải mừng vì từ nay mình đã lớn. Chúc mừng con!" để trẻ thấy tự tin, biết quý trọng bản thân thì bố mẹ thường làm cho trẻ thêm hoảng hốt.

GDGT đã thực hiện thì phải làm cho đúng, dạy chính xác còn không thì thôi, đừng thực hiện kiểu bâng quơ làm trẻ thêm rối rắm. Cũng không thể chỉ nói lý thuyết suông, khi dạy cần có hình ảnh minh họa cụ thể giúp trẻ biết rõ, biết chắc.

Thời gian đầu dạy về GDGT, cần tách riêng nam nữ ra để các em có sự tập trung. Còn dạy chung thì các em e ngại nên sẽ cười ồ lên để chọc bạn bè rồi chẳng cái gì vào đầu hết. Bên cạnh đó, việc tạo những sân chơi lành mạnh cho trẻ, bố mẹ cần dành thời gian cho con là điều không thể thiếu không riêng gì trong việc GDGT mà giáo dục chung về nhân cách, trí tuệ cho trẻ.

Hiện nay ở trường học, việc GDGT chưa đáp ứng kịp độ tuổi cũng như nhu cầu thực tế của các em. Việc giáo dục sức khỏe giới tính, sức khỏe sinh sản ở trường học còn nặng về lý thuyết, kiến thức mà quên việc trang bị cho các em kỹ năng cần thiết để bảo vệ mình nên dù biết nhiều nhưng các em vẫn gánh hậu quả tiếc.

Tình trạng nữ sinh phá thai hiện nay rất đáng báo động, có em học phổ thông từng phá thai 2 – 3 lần. Nhiều bố mẹ khi biết con mình phá thai cứ đinh ninh con mình không đi đâu hết, được đưa đón đến trường, hết giờ học là có mặt ở nhà… mà đâu biết mình không thể kiểm soát con mọi lúc mọi nơi được. Đã đến lúc chúng ta phải đi vào các kỹ năng cụ thể như cách sử dụng bao cao su, sử dụng các biện pháp tránh thai cho các em. Bởi chúng ta không vẽ đường thì chúng vẫn chứ chạy và chạy không định hướng nên cần vẽ cho hươu chạy đúng đường.

Hoài Nam (ghi)

Nguồn: http://dantri.com.vn/c25/s25-584938/giao-duc-gioi-tinh-nguoi-lon-ne-tranh-tre-lanh-du.htm

Học tiếng Anh ở phổ thông: Kết quả = …0!

Posted: 12 Apr 2012 02:25 AM PDT

Mục tiêu đầu tiên của việc học ngoại ngữ là để có thể giao tiếp được bằng ngôn ngữ đó. Thế nhưng, sau bảy năm học tiếng Anh ở bậc phổ thông với biết bao thời gian và công sức, kết quả thu được gần như chỉ là con số 0 vì đại đa số học sinh (HS) không thể nghe, nói, đọc, viết.



Học sinh Trường THPT Lê Quý Đôn trong một giờ học tiếng Anh


Đọc thì được, hiểu thì không!

Ông Phạm Thanh Tâm – Hiệu trưởng Trường THPT Hồng Đức (Q.Bình Thạnh, TP.HCM) tiết lộ: để chuẩn bị cho kỳ thi tốt nghiệp 2012 sắp diễn ra, ông đã nhiều lần kiểm tra khả năng tiếng Anh của HS lớp 12 dựa trên bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Kết quả cho thấy: khả năng "nghe nói" là quá kém và không còn gì phải bàn cãi. Hiếm HS có thể nói được tiếng Anh với nhau về những sinh hoạt bình thường trong cuộc sống. Hai kỹ năng "đọc viết" của HS cũng hỏng.

"HS có thể "đọc" (chưa nói là đọc đúng) hết một trang sách, nhưng lại không hiểu nội dung nói gì và không thể tóm lược nội dung ấy. Như thế thì chưa phải là đã đọc được!", ông Tâm khẳng định.

Cách đây chưa lâu, một nghiên cứu của Sở Khoa học – công nghệ TP.HCM về thực trạng giao tiếp qua dạy và học tiếng Anh trong nhà trường phổ thông tại TP.HCM cũng cho kết quả rất bi quan: sau khi học hết THCS (lớp 9), HS chỉ có thể nghe nói được những thông tin cơ bản như chào hỏi, tên tuổi, chứ không thể "kể lại được một câu chuyện khoảng 100 từ" như chương trình đòi hỏi.

Ở bậc THPT (lớp 12), với câu hỏi: "Có bao nhiêu phần trăm HS yếu kém kỹ năng nghe nói?", "đáp số" ở HS là 78%, ở giáo viên (GV) là 70%, ở cán bộ quản lý là 73% và ở phụ huynh HS là 75%. Vào cuối năm 2011, theo kết quả đánh giá của các tổ chức như Hội đồng Anh, Trung tâm giáo dục Apollo về trình độ tiếng Anh theo tiêu chuẩn quốc tế của 20 nước được khảo sát thì HS Việt Nam xếp thứ 8/20 về khả năng đọc và viết, nhưng lại xếp thứ 18/20 về khả năng nghe nói.

Nguyên nhân thì nhiều, nhưng theo ông Cao Huy Thảo – Hiệu trưởng Trường THPT Việt – Úc (Q.Phú Nhuận), nguyên Phó hiệu trưởng Trường THPT Lương Thế Vinh (Q.1), nhiều năm là GV dạy môn tiếng Anh bậc THPT – thì có thể kể đến các yếu tố như chương trình, điều kiện dạy và học, đội ngũ GV và phương pháp đánh giá…

Dù đã được biên soạn theo hướng giao tiếp với bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, nhưng theo ông Trần Đình Nguyễn Lữ – chuyên viên tiếng Anh của Sở GD-ĐT TP.HCM thì chương trình môn tiếng Anh hiện vẫn chưa thực sự hiện đại, còn thiếu thời gian để chuyển tải, mức độ cập nhật không cao và vẫn rơi vào tình trạng người lớn buộc trẻ con học theo cách nghĩ của mình.

Theo các chuyên gia giáo dục, ngoại ngữ là môn dạy kỹ năng, nên đòi hỏi phải được rèn luyện nhiều, nghĩa là phải tổ chức nhiều hoạt động trong giờ học. Muốn thế, môi trường học tập (phòng học) phải có sự tách biệt để các hoạt động không ảnh hưởng đến môi trường xung quanh, phải có nhiều thời gian để thực hành, sĩ số không quá lớn để GV có thể giao tiếp được với tất cả HS, và quan trọng hơn cả là GV phải có kỹ năng nghe nói tốt.

Thế nhưng, bà Lê Thúy Hòa – Hiệu trưởng Trường THPT Thái Bình cho biết: những năm mới mở trường, bà phải tuyển nhiều GV dạy tiếng Anh. Các ứng viên đều tốt nghiệp sư phạm tiếng Anh, thậm chí tốt nghiệp khá giỏi, lại từng dạy tiếng Anh ở các trung tâm ngoại ngữ, nhưng khi có khách nước ngoài, trường nhờ một cô giỏi nhất lên làm phiên dịch thì cô không dịch nổi. Mới đây, trường có nhờ một GV khá nhất để tiếp người của một tổ chức quốc tế đến giúp trường nâng chất lượng giảng dạy tiếng Anh nhưng cô này cũng không tự tin.

Khảo sát năng lực của đội ngũ GV tiếng Anh theo chuẩn châu Âu mới đây của một số địa phương đã cho kết quả giật mình. Theo thống kê chung, số GV tiếng Anh của tỉnh Hải Dương đạt chuẩn là 14% ở THCS và 4% ở THPT. Tại TP.HCM, dù kết quả khảo sát không được công bố chính thức, nhưng theo nguồn tin chúng tôi nắm được, nếu đúng chuẩn: GV có trình độ B2 mới được dạy THCS và trình độ C1 mới được dạy THPT thì tỷ lệ đạt chỉ là 5%, còn nếu "du di": B2 có thể dạy THPT và B1 có thể dạy THCS thì tỷ lệ đạt là 15%. Với chất lượng đội ngũ như thế, sẽ rất gay go nếu chuyển hướng dạy tiếng Anh giao tiếp!

Phải thay đổi

Tình trạng trên cho thấy, việc phải thay đổi cách dạy và học tiếng Anh ở bậc phổ thông là hết sức cấp bách. Các giải pháp cho vấn đề đã được đề cập nhiều, cụ thể như tăng thời gian học, nâng cấp khả năng giao tiếp của GV, phân lớp để dạy theo đối tượng (vì khả năng, mục đích và yêu cầu học tiếng Anh của mỗi HS không giống nhau), nâng cấp điều kiện dạy học và giáo trình, đầu tư đổi mới hơn nữa trong đào tạo GV tiếng Anh, chương trình học và sách giáo khoa phải đồng bộ, xuyên suốt và thống nhất giữa các cấp học…

Những đòi hỏi vừa nêu đều đúng, nhưng sẽ là không thực tế nếu không giải quyết được vấn đề cốt lõi. Đơn cử về mặt thời gian, từ lớp 6 đến lớp 12 (trừ lớp 9), mỗi tuần có ba tiết tiếng Anh. Khoảng thời gian này chỉ đủ cho GV truyền tải kiến thức chứ không có thời gian để luyện tập cho HS. Vì thế, từ lâu, GV tiếng Anh đã “đòi” tăng tiết. Nhưng, các môn học khác cũng rất cần tăng tiết! Và, vấn đề trở nên luẩn quẩn.

Ông Cao Huy Thảo cho rằng, chương trình đã chỉnh việc dạy và học theo hướng giao tiếp, trong đội ngũ GV dạy tiếng Anh cũng có nhiều người giỏi giao tiếp, nhưng trong bối cảnh hiện nay, họ bị vô hiệu hóa! "Nếu dạy theo hướng giao tiếp, HS rất thích, nhưng GV sẽ không có đủ thời gian để tải hết chương trình (đây là một tội lớn) và HS thi cử cũng không đạt (lại thêm một tội nữa).

Vì thế, đề thi ra thế nào mình phải dạy HS thế ấy!" – một GV cho biết. Cô Hồ Đặng Hồng Châu – Tổ trưởng Tổ Tiếng Anh Trường THPT Tạ Quang Bửu (Q.8) phân tích: "Bất cập ở chỗ chương trình yêu cầu dạy bốn kỹ năng, nhưng 50 câu trắc nghiệm trong đề thi tiếng Anh lại chủ yếu thuộc về kỹ năng viết và ngữ pháp. Có vài câu thuộc các tình huống giao tiếp nhưng HS cũng chỉ chọn phương án đúng và đánh dấu chứ không nghe nói gì".

Tiếng Anh là một ngôn ngữ, sử dụng nhiều mới có kỹ năng phản xạ tốt. Em H.T., HS Trường THPT Trần Khai Nguyên, Q.5, nói: "Chương trình học văn phạm, từ vựng rất nhiều, rất nhức đầu, nhưng sau khi trả bài xong là tụi em quên ngay". Nhiều HS có khả năng nghe nói tiếng Anh nhưng buộc phải học tiếng Anh bằng tiếng Việt. Hình thức thi môn tiếng Anh như hiện nay không đánh giá, không thúc đẩy được khả năng giao tiếp của HS, mà còn làm khả năng ấy (nếu có) bị cùn mòn.

"Nếu không đổi mới nhận thức về việc dạy học và thi – đánh giá môn tiếng Anh thì mọi đổi mới cũng đều bằng thừa" – ông Cao Huy Thảo khẳng định.

Cô Nguyễn Thị Minh Hồng – GV môn tiếng Anh Trường THPT Gia Định (Q.Bình Thạnh) cũng cho rằng: "Hiện nay, đa phần HS học tiếng Anh như một môn học bắt buộc mà không phải học vì nhận thức được tầm quan trọng của tiếng Anh trong tương lai. Từ đó, các em học với tinh thần "đối phó"; hậu quả: nhiều em ra trường mà chưa lấy được bằng tốt nghiệp ĐH vì còn "nợ" môn tiếng Anh trình độ B”.

  • Theo Minh Nhật (Phụ nữ TP.HCM)

Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/67990/hoc-tieng-anh-o-pho-thong--ket-qua----0-.html

Một đề thi lạ

Posted: 12 Apr 2012 02:25 AM PDT

- Trong các kì thi tốt nghiệp hoặc thi vào các trường ĐH, CĐ mấy năm gần đây
chưa thấy xuất hiện "đề văn lạ". Là chủ biên sách Làm văn cho bậc THPT sau năm
2000, bây giờ tôi mới thực sự thấy một "đề văn lạ" – đó là

đề thi của Trường ĐH FPT
.

Toàn văn đề thi:

"Trong kiệt tác Truyện Kiều, đại thi hào Nguyễn Du đã từng chia sẻ quan
niệm của mình thông qua phát ngôn của nhân vật Kim Trọng về"chữ trinh":

"Xưa nay trong đạo đàn bà
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường
Có khi biến, có khi thường
Có quyền, nào phải một đường chấp kinh".
cho dù chính ông cũng từng khẳng định:"Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu".

Ngày xưa, nếu cô dâu bị mất trinh thì coi như mất hết, hôn nhân đổ vỡ,
người vợ bị đem trả lại. Nhưng ngày nay, đối với nhiều bạn trẻ, cái màng trinh
không còn ý nghĩa quan trọng như thế, thậm chí nhiều người còn ủng hộ quan điểm
tình dục trước hôn nhân.

Vậy theo bạn, người phụ nữ có nhất thiết phải phải giữ trinh tiết trước
khi về nhà chồng? Và hạnh phúc thật sự của một cuộc hôn nhân có phụ thuộc vào
việc người phụ nữ còn trinh hay không?

Hãy viết một bài luận để phát triển quan điểm của bạn về vấn đề này. Hãy
củng cố quan điểm và lập luận của mình bằng các ví dụ từ sách báo và các quan
sát của bạn trong cuộc sống."

Chúng ta đều biết rằng, trong bối cảnh hiện nay, ở mọi phương diện cuộc sống,
rất cần khuyến khích những suy nghĩ sáng tạo, mới lạ. Dạy học Làm văn trong nhà
trường càng phải như thế. Đề văn của ta lâu nay thường mòn sáo theo một khuôn
mẫu, ít gây hứng thú và sáng tạo cho học sinh. Vì thế rất nên có những đề văn
phá cách, mới mẻ, khác lạ, ra đề theo hướng "mở"…

Tuy nhiên "mới mẻ", "khác lạ","mở"…nhưng vẫn phải bảo đảm sự chính xác, tính
khoa học, tính thẩm mỹ và yêu cầu giáo dục tư tưởng cho thế hệ trẻ. Mới lạ không
đồng nghĩa với sự cẩu thả, tùy tiện, càng không phải là thô thiển, nhảm nhí…
Tiếc rằng đề văn vừa nêu trên là đề văn "lạ" nhưng không đáp ứng được yêu cầu
vừa nêu, nó lạ theo chiều hướng xấu, tiêu cực, phi giáo dục

Về điều này tôi hoàn toàn tán thành với ý kiến của GS. Nguyễn Minh Thuyết cho
rằng: "Đề thi của ĐH FPT vừa yếu về chuyên môn, vừa thô tục"và PGS.TS Văn Giá
"Đề thi ‘trinh tiết’ của ĐH FPT mắc sai lầm nghiêm trọng"
đã nêu trong bài
trả lời báo điện tử Giáo dục Việt Nam ngày 11/04. Ở đây chỉ xin nêu và
làm sáng tỏ thêm một vài khía cạnh khác.

Đề văn trên trích hai phát ngôn, một là lời của Kim Trọng trong màn
đoàn viên sau 15 năm lưu lạc và một là lời Thúy Kiều tự tình cùng chàng Kim
trong buổi đầu gặp gỡ: "Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu". Đành rằng
các phát ngôn của nhân vật chính diện trong tác phẩm thường mang tư tưởng của
tác giả, nhưng trên đã nêu là của Kim Trọng thì dưới phải nói là của Thúy Kiều
chứ không phải Nguyễn Du.

Thứ hai đây là một đề nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác
phẩm văn học (vấn đề trinh tiết của người phụ nữ, và tác phẩm Truyện Kiều),
nhưng cách nêu quá thô, lan man, dài dòng và đặc biệt lại đặt ra một vấn đề/ đề
tài không phù hợp với yêu cầu giáo dục thẩm mỹ và tư tưởng- những yêu cầu vốn
rất cơ bản để tạo nên đặc trưng của môn Ngữ văn, môn học về cái đẹp và sự tinh
tế.

Cách đây không lâu, người ta còn nhớ có đề văn được coi là phản thẩm mỹ khi
yêu cầu học sinh bàn luận về câu "Không bao giờ nên hoãn sự sung sướng lại"
của ông giáo trong truyện Lão Hạc (Nam Cao). So với đề văn về Lão Hạc thì đề
văn của đại học FPT phải là bậc "cụ" về phản thẩm mỹ.

Tại sao lại có thể đem chuyện "cái màng trinh" và chuyện "tình dục trước hôn
nhân" của người phụ nữ ra để làm đề tài bàn luận trong một đề thi văn. Nếu đây
là một đề tài trao đổi nhóm khi học môn sinh vật hoặc giáo dục công dân, tìm
hiểu và giáo dục giới tính… thì còn khả dĩ.

Trong khi Nghị luận xã hội, có biết bao nhiều đề tài hay, mới mẻ, thiết thực,
phù hợp và giàu ý nghĩa đối với tuổi trẻ tại sao không nêu lên để thí sinh bàn
luận. Hơn nữa cách nêu quan niệm về trinh tiết của thời xưa và nay đối lập như
thế, vô hình chung đề văn đã cổ vũ cho việc phụ nữ ngày nay không cần trinh
tiết, khuyến khích "tình dục trước hôn nhân".

Đành rằng trong giáo dục học đường chúng ta không nên né tránh nhiều vấn đề
có thực trong đời sống, kể cả những vấn đề tế nhị và nhạy cảm hoặc thậm chí bị
coi là "cấm kị", nhưng đưa vấn đề đó vào nhà trường ở môn học hay hoạt động nào;
đưa như thế nào và bằng cách nào là hết sức quan trọng. Liệu có phải cứ nhân
danh yêu cầu "sáng tạo", cần phải "mở" để ra những đề văn mở đến "vô bờ bến" và
vô phương hướng hay không?

Hoa Kỳ là một đất nước có nền giáo dục rất tự do và dân chủ tối đa, giáo viên
có quyền rất cao trong việc lựa chọn các nội dung và cách dạy học… nhưng xem các
đề thi văn của họ, tôi không thấy bất kì đề thi nào kiểu như đề thi về "cái màng
trinh" của đại học FPT.

Đề thi năm 2006-2007:

Nếu bạn có thời gian một ngày với một nhân chứng lịch sử hoặc một nhân vật
hư cấu, tưởng tượng, bạn định gặp ai? Bạn sẽ làm gì trong suốt ngày ấy? Bạn sẽ
đi đâu và bạn sẽ nói những gì? Viết một bài văn kể lại những nơi mà bạn và người
ấy đã đi, những gì mà hai người đã làm. Cần sử dụng các chi tiết và chứng cớ để
làm sáng tỏ.

Đề thi năm 2007-2008:

Tất cả nghệ thuật, kịch, vũ điệu và âm nhạc trong giáo dục nhà trường đều
là chủ đề tranh luận quốc gia. Một số người tin rằng các chủ đề này không cần
thiết đối với HS; một số người khác lại cho rằng các chủ đề này không chỉ cần
thiết mà còn là sự sống còn của một nền giáo dục đa dạng.

Viết một bài nghị luận giải thích các loại hình nghệ thuật nêu trên có
quan trọng hay không đối với giáo dục phổ thông. Hãy nêu những lí do và bằng
chứng làm sáng tỏ cho luận điểm của bạn.

Đề thi năm học 2008-2009:

Trong thời gian học ở trường THPT, học sinh được học nhiều khoảng khắc
lịch sử, những khoảng khắc vẫn còn ảnh hưởng đối với cuộc sống hôm nay. Hãy suy
nghĩ về một khoảng khắc lịch sử nào đó mà bạn đã học và cho đó là quan trọng.

Viết bài nghị luận về khoảng khắc lịch sử mà bạn suy nghĩ. Trao đổi về tầm
quan trọng của nó đối với cuộc sống ngày nay. Hãy làm sáng tỏ bằng các chi tiết
và ví dụ cụ thể.

Ở Việt Nam với chương trình sau 2000, rất nhiều đề văn mới mẻ và sáng tạo đã
xuất hiện và tạo nên nhiều cảm hứng cho HS, chẳng hạn đề văn: "Một bài học
sâu sắc, ý nghĩa mà cuộc sống đã tặng cho em"
hoặc gần hơn là đề văn "Nêu
quan điểm của anh (chị) về vai trò của đồng tiền trong cuộc sống"
, để sau đó
có những bài văn gây xôn xao dư luận như của Hà Minh Ngọc; hoặc làm xúc động
lòng người như bài văn của Nguyễn Trung Hiếu trường Amsterdam.

Giáo dục tư tưởng và thẩm mỹ trong nhà trường là vấn đề hết sức quan trọng.
Luật giáo dục (2005) ghi rõ: mục tiêu của GD là "hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của công dân", "kế thừa và phát huy truyền thống tốt
đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc"
( Điều 2 và Điều 5). Chương trình Ngữ văn
(2006) của Bộ GD-ĐT cũng ghi rõ: "Môn Ngữ văn là môn học thuộc lĩnh vực thẩm
mĩ… HS được làm giàu xúc cảm thẩm mĩ và định hướng thị hiếu lành mạnh nhằm
hoàn thiện nhân cách của mình."

Chúng tôi cho rằng nếu cứ ra đề thi như đề văn của đại học FPT nêu trên thì
liệu các nhà trường có đạt được những mục tiêu và yêu cầu cao đẹp kia không ?

  • PGS-TS Đỗ Ngọc Thống (Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam)

****************************

Bạn có đồng ý với ý kiến của PGS Đỗ Ngọc Thống? Ý kiến của bạn về vấn đề này, xin gửi theo địa chỉ: bangiaoduc@vietnamnet.vn. Xin cảm ơn các bạn

Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/67905/mot-de-thi-la.html

Sẽ bỏ quy định đánh thuế dạy thêm?

Posted: 12 Apr 2012 02:24 AM PDT

- “Bộ GD-ĐT sẽ tiếp thu góp ý cho rằng, qui định sắp tới của Bộ chỉ
nên điều chỉnh hoạt động dạy thêm, học thêm (DTHT) có thu tiền của người học, không điều chỉnh các
hình thức DTHT không thu tiền. Đồng thời, sẽ xem xét bỏ quy định
dạy thêm phải đóng thuế khi ban hành quy định mới về DTHT….” Vụ trưởng Vụ GD Trung học – Bộ
GD-ĐT Vũ Đình Chuẩn cho biết khi trao đổi với VietNamNet
.

TIN BÀI LIÊN QUAN:

Ông Vũ Đình Chuẩn, Vụ trưởng Vụ Giáo dục trung học (Ảnh Lê Anh Dũng)

Không cấm dạy thêm

- Thưa ông, có thông tin tuần này Bộ GD-ĐT sẽ ban hành quy định về dạy
thêm học thêm (DTHT). Tuy nhiên, vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều về một số quy
định đưa ra trong dự thảo như: quy định về đánh thuế, không thể cấm
DTHT,… Bộ đã tiếp thu ý kiến đến đâu?

Thứ nhất, Bộ GD-ĐT đang tiếp tục hoàn thiện quy định về DTHT trên cơ sở tiếp
thu ý kiến của giáo giới và dư luận nên chưa thể nói ban hành trong tuần được.
Tinh thần của văn bản khi ban hành sẽ không cấm, chỉ ngăn chặn tiêu cực trong tổ
chức DTHT.

Thứ hai, tôi đồng tình với các ý kiến cho rằng, bản chất của việc DTHT là tốt
nếu như xuất phát từ nhu cầu thật sự của học sinh, của cha mẹ học sinh. Do đó,
những quy định trước đây và dự thảo quy định lần này không nhằm mục đích cấm
DTHT mà nhằm đề phòng, ngăn chặn các tiêu cực có thể xuất hiện trong DTHT. Việc
học thêm xuất phát từ nhu cầu chính đáng của học sinh và nguyện vọng của cha mẹ
học sinh để mở rộng kiến thức của học sinh vẫn được chấp nhận.

Về quy định nộp thuế thu nhập, đây không phải nhiệm vụ của ngành giáo dục.
Trong dự thảo Bộ chỉ đặt vấn đề này để cán bộ, giáo viên trong ngành phải lưu ý
thực hiện nghĩa vụ của công dân phải nộp thuế theo quy định khi phát sinh thu
nhập chịu thuế. Trên cơ sở tiếp thu các ý kiến góp ý, Bộ sẽ xem xét, quyết định
khi ban hành chính thức.

- Thực tế, Bộ GD-ĐT đã ban hành quy định về DTHT nhưng việc DTHT vẫn diễn
ra tràn lan ở tất cả các cấp học. Ông có ý kiến gì về thực tế này?

DTHT là một hiện tượng xã hội không phải của riêng Việt Nam mà của rất nhiều
quốc gia trên thế giới. Như tôi đã nói ở trên thì bản chất của việc DTHT là tốt
nếu như nó xuất phát từ nhu cầu thực sự của học sinh, của cha mẹ học sinh muốn
nâng cao kết quả học tập của con em mình. Việc DTHT tràn lan theo nghĩa DTHT
mang tính tiêu cực như lạm dụng DTHT để vụ lợi, DTHT quá nhiều làm ảnh hưởng đến
sức khỏe và khả năng tự học của học sinh,… trong thực tế chủ yếu diễn ra ở những
nơi có điều kiện kinh tế khá phát triển, nhất là ở những thành phố. Ở rất nhiều
tỉnh nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, nhà trường và giáo viên dạy thêm
không thu tiền của học sinh, có nơi còn hỗ trợ học sinh về sách bút và các điều
kiện khác để các em học tập tốt hơn.

Nói một cách công bằng thì có rất nhiều thầy cô giáo trên cả nước vẫn âm thầm
kèm cặp dạy dỗ học sinh một cách tận tình không chỉ bó hẹp trong khoảng thời
gian lên lớp, không vụ lợi.

Điều đáng phê phán trong hoạt động dạy thêm là có một bộ phận giáo viên xuất
phát từ động cơ vụ lợi, bằng nhiều cách khác nhau bắt ép học sinh học thêm gây
bức xúc đối với xã hội. Hiện tượng này làm tăng gánh nặng kinh tế cho một số gia
đình gây lãng phí về thời gian, tiền bạc và làm ảnh hưởng đến sức khỏe của học
sinh. Nghiêm trọng hơn là làm giảm lòng tin của người dân đối với ngành giáo
dục.

Chúng tôi sẽ xem xét để tiếp thu góp ý cho rằng qui định sắp tới của Bộ chỉ
nên điều chỉnh hoạt động DTHT có thu tiền của người học, không điều chỉnh các
hình thức DTHT không thu tiền.

Dạy thêm ngoài nhà trường phải có giấy phép

- Ở góc độ quản lí, ông có cho rằng có sự bất cập trong hoạch định chính
sách nên quy định không gắn với thực tế, khó giám sát (thực tế năm 2007 đã ban
hành quy định về DTHT). Từ đó buông lỏng quản lí để DTHT phát triển tràn lan?

Sau khi Bộ GDĐT ban hành quy định DTHT, tất cả các tỉnh, thành phố đã ban
hành quy định về DTHT để quản lý hoạt động dạy thêm trên địa bàn. Nhiều địa
phương đã tích cực đi đầu trong việc triển khai, kiểm tra, đôn đốc các nhà
trường, các tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm túc quy định, đồng thời xử lý kịp
thời, thích đáng các trường hợp vi phạm.

Bộ cũng đã tổ chức nhiều cuộc kiểm tra, thanh tra về thực hiện quy định. Căn
cứ kết quả thanh tra, Bộ đã trực tiếp yêu cầu các địa phương, đơn vị xử lý các
trường hợp vi phạm theo quy định.

Tuy nhiên, một số nơi để DTHT phát triển tràn lan do buông lỏng quản lý là
có. Việc kiểm tra, đôn đốc thực hiện quy định DTHT ở những nơi này chưa được chú
trọng, chưa được triển khai quyết liệt. Ở một số trường học, nhà trường chưa tập
trung vào việc đổi mới phương pháp dạy học, đánh giá, cải thiện cơ sở vật chất,
nâng cao trình độ năng lực của giáo viên để nâng cao chất lượng giáo dục, hạn
chế việc phải DTHT.

- Vậy dự thảo sắp ban hành có khắc phục tình trạng DTHT tràn lan kéo dài
nhiều năm nay không, thưa ông?

Dự thảo lần này quy định về dạy thêm học thêm, bao gồm: Đối tượng và phạm vị
áp dụng; Nguyên tắc dạy thêm học thêm; Quy định tổ chức hoạt động dạy thêm học
thêm; Thu và quản lý tiền học thêm; Tiêu chuẩn đối với người dạy thêm và người
tổ chức hoạt động dạy thêm; Thẩm quyền, thủ tục cấp giấy phép tổ chức hoạt động
dạy thêm học thêm; Trách nhiệm quản lý dạy thêm học thêm; Thanh tra, kiểm tra và
xử lý vi phạm… Đây là những quy định nhằm đảm bảo chất lượng, đảm bảo quyền lợi
người học thêm, khắc phục hiện tượng dạy thêm trái quy định.

Đối với DTHT trong nhà trường, học sinh phải tự viết đơn xin học thêm gửi nhà
trường. Cha mẹ học sinh phải trực tiếp ký, ghi nội dung cam kết với nhà trường.
Nhà trường phải phân loại học sinh theo học lực và tổ chức dạy thêm theo nhóm
trình độ học sinh, không tổ chức lớp DTHT theo các lớp học chính khóa. Giáo viên
muốn dạy thêm phải có đơn đăng ký dạy thêm, nhà trường xét duyệt danh sách, phân
công giáo viên, xếp thời khóa biểu dạy thêm phù hợp với trình độ học sinh.

Với DTHT ngoài nhà trường, tổ chức, cá nhân đứng ra tổ chức hoạt động DTHT
phải ký cam kết với ủy ban nhân dân cấp xã nơi đặt điểm DTHT về thực hiện đúng
các quy định. Đồng thời, phải thông báo công khai trước khi thực hiện dạy thêm,
cụ thể là giấy phép DTHT, danh sách người dạy thêm, chương trình, nội dung dạy
thêm, học thêm, mức thu tiền học thêm…

Trong quy định trước đây (năm 2007) còn nhiều nội dung được giao cho Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố qui định, phần nào gây khó khăn cho các địa phương.
Rút kinh nghiệm qua thực tiễn, dự thảo mới có thêm những quy định thống nhất
trong cả nước, đồng thời cũng quy định cụ thể hơn về trách nhiệm quản lý DTHT
của các cấp chính quyền từ cấp tỉnh, huyện đến xã; các cấp quản lý giáo dục từ
sở, phòng GD-ĐT đến các cơ sở giáo dục; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân tổ chức
hoạt động DTHT và của người dạy thêm.

Tuy nhiên, để những quy định về DTHT có tác dụng thiết thực, rất cần sự chỉ
đạo chặt chẽ của các cấp chính quyền, sự chung tay góp sức của cha mẹ học sinh
và đội ngũ thầy, cô giáo….

Sau khi quy định mới về DTHT được ban hành, Bộ sẽ phối hợp cùng Ủy ban nhân
dân các tỉnh, thành phố tăng cường chỉ đạo các sở GD-ĐT, phòng GD-ĐT, các trường
phối hợp với chính quyền địa phương thường xuyên kiểm tra và xử lý vi phạm; đặc
biệt sẽ xử lý vi phạm đối với cả người đứng đầu cơ quan theo quy định về chế độ
trách nhiệm.

- Cảm ơn ông!

Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/67893/se-bo-quy-dinh-danh-thue-day-them-.html

Bộ Giáo dục không để trò nghỉ học vì nghèo

Posted: 12 Apr 2012 02:23 AM PDT

- Ngày 11/4 Bộ GD-ĐT có công điện yêu cầu lãnh đạo các Sở GD-ĐT và hiệu trưởng ĐH-CĐ-TCCN báo cáo nhanh tình hình, số lượng học sinh, SV đang học nhưng phải bỏ vì điều kiện kinh tế khó khăn và chủ động tìm giải pháp giúp đỡ.

Bát cơm với vài lát bí đao luộc đã là khá tươm tất giúp cô trò nhỏ người H'Mông này cầm cự suốt 5 tiết học buổi sáng.(Trường TH và THCS Tà Xi Láng). Ảnh: Lê Anh Dũng

Công điện gửi Giám đốc, Hiệu trưởng các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp yêu cầu: Báo cáo nhanh tình hình, số lượng học sinh, sinh viên đang học nhưng phải bỏ học vì điều kiện khó khăn về kinh tế (thống kê rõ số lượng học sinh, sinh viên theo từng địa phương cư trú và đang học năm thứ mấy?).

Chủ động tìm các giải pháp phù hợp với điều kiện cụ thể của nhà trường và phối hợp với các tổ chức, ban ngành chức năng của địa phương hỗ trợ, giúp đỡ, không để học sinh, sinh viên phải bỏ học vì điều kiện khó khăn về kinh tế.

  • Văn Chung

Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/67936/bo-giao-duc-khong-de-tro-nghi-hoc-vi-ngheo.html

Người thầy của chúng tôi

Posted: 12 Apr 2012 02:23 AM PDT

Người thầy của chúng tôi

TTO – Thấm thoát đã 26 năm kể từ ngày chúng tôi được học thầy ở lớp đào tạo giáo viên ngắn hạn Trường Bồi dưỡng giáo dục, Phòng giáo dục thị xã Cà Mau.

Thầy tôi là Trần Văn Minh. Thầy vừa người, không cao, không thấp, hơi gầy. Thầy có nước da trắng hồng, dáng “thư sinh” lắm vì lúc nào thầy cũng khoan thai, đĩnh đạc, nghiêm túc. Đôi mắt sâu và sáng dưới cặp mày rất đậm. Mũi thầy cao, miệng hơi “móm”, lúc thầy nói cười rất có duyên.

Thầy được phân công làm giáo viên hướng dẫn của lớp tôi. Lớp lúc ấy có trên 40 giáo sinh ít nam, nhiều nữ. Hoàn cảnh, xuất thân mỗi người mỗi khác nhưng có điểm chung là chúng tôi rât yêu thích nghề dạy học mặc dù chẳng ai có chút kinh nghiệm giảng dạy nào cả, nên để đào tạo chúng tôi thành những cô giáo, thầy giáo, thầy đã đổ không biết bao nhiêu công sức, thời gian.

Những ngày đầu thầy dạy chúng tôi về đạo đức, tác phong của người giáo viên. Thầy thường nhắc nhở: “Khi nói năng, đi đứng, ăn mặc luôn phải nhớ mình là thầy giáo, cô giáo. Mọi cử chỉ, lời nói, việc làm của mình phải mẫu mực vì các em sẽ nhìn vào đó mà học theo, làm theo. Tuyệt đối không được xuề xòa, tùy tiện, dễ dãi với bản thân”.

Thấy chúng tôi hay cười đùa to tiếng, xưng hô “mày”, “tao” một cách tự nhiên và hay “nói chơi” thái quá là thầy rầy ngay. Thầy bảo nói năng như thế làm sao mà dạy học sinh.

Bọn con gái chúng tôi là chúa ăn vặt, ăn rồi thường nhét rác vào hộc bàn hay đùa trong góc lớp. Đến giờ của thầy, thầy cho cả lớp đứng dậy kiểm tra hộc bàn, vệ sinh trong ngoài lớp sạch sẽ rồi thầy mới dạy. Thầy nói: ”Nhà sạch thì mới ăn ngon, ngủ ngon được, còn lớp học có sạch sẽ thì học mới tốt được. Vệ sinh là một trong những đức tính mà giáo viên phải làm gương và phải giáo dục cho học sinh”.

Cứ thế, thầy dạy chúng tôi từng chút, từng chút một, hoàn thiện cho chúng tôi để trở thành một người giáo viên thật sự.

Khi học đến chuyên môn thầy mới thật sự vất vả. Học đến môn nào, thầy mời giáo viên giỏi đến dạy mẫu môn đó để chúng tôi học tập, rút kinh nghiệm mà làm theo. Thầy hướng dẫn chúng tôi soạn giáo án chi tiết đến từng lời nói, từng thao tác nhỏ. Chúng tôi soạn, thầy góp ý, sửa sai, có khi hai ba lần mới được một bài giáo án hoàn chỉnh.

Mới bước đầu chập chững lên lớp đối với chung tôi quả thật rất khó khăn. Một đứa lên dạy, cả lớp làm học sinh còn thầy ngồi dự giờ. Có đứa sợ quá, mặt mày xanh mét, tay chân run rẩy, viết chữ ngoằn ngoèo, quên đầu quên đuôi, học sinh làm sai nói sai cũng cho là đúng….

Thầy rất thông cảm, cứ động viên khuyến khích: ”Không sao hết, tiết dạy này chưa đạt, rút kinh nghiệm dạy lại. Chỗ nào sai, sửa lại. Về nhà đứng trước gương tập lên lớp, thao tác, dần dần sẽ quen”.

Thầy dự giờ, rút kinh nghiệm, góp ý từng li từng tí cho từng đứa. Dự được một tiết dạy tốt, thầy vui mừng, sung sướng, nét mặt rạng rỡ hẳn lên làm chúng tôi thật sự xúc động.

Trước khi tốt nghiệp ra trường, thầy nhắc nhở, dặn dò cặn kẽ: “Bao giờ cũng thế, thực tế sẽ có những tình huống mà trong lý thuyết không có. Là giáo viên, các em phải có bản lĩnh, sáng tạo, phải có năng lực sư phạm để xử lý tình huống bất ngờ xảy ra trong quá trình giảng dạy. Con đường các em đã chọn không phải lúc nào cũng phẳng phiu, đẹp đẽ mà sẽ có những chông gai, vật cản, những thử thách nghiệt ngã. Nhưng nếu hết lòng yêu nghề, tâm huyết với nghề, thầy tin các em sẽ vượt qua”.

Chúng tôi được quyết định về nhiều trường khác nhau ở các xã và thị xã Cà Mau. Mỗi khi gặp lại nhau, ai cũng nhắc đến thầy, người đã tận tâm, tận tình dìu dắt chúng tôi những bước đầu tiên vào nghề.

Đến bây giờ, chỉ có một vài người nghỉ dạy vì sức khỏe và hoàn cảnh gia đình, còn lại có người vẫn là giáo viên, có rất nhiều người là lãnh đạo trường và có đứa còn đang là trưởng phòng giáo dục thành phố Cà Mau. Dù ở cương vị nào, chúng tôi vẫn luôn ghi nhớ công ơn thầy – người đã đào tạo chúng tôi thành những con người hoàn thiện, góp công góp sức trong sự nghiệp “trồng người”.

Bài viết này là lời tri ân của tôi gửi đến thầy với tất cả lòng tôn kính. Cầu mong thầy sống vui vẻ, hạnh phúc bên những người thân trong những năm tháng còn lại của cuộc đời.

HUỲNH THỊ NGUYỆT (Nguồn: www.netbuttrian.vn)

Nguồn: http://tuoitre.vn/Giao-duc/481835/Nguoi-thay-cua-chung-toi.html

Trường trung học cần đáp ứng 5 chuẩn

Posted: 12 Apr 2012 02:23 AM PDT

(GDTĐ)-Bộ GDĐT đã ban hành thông tư quy định về tiêu chuẩn đánh giá trường THCS, trường THPT và trường phổ thông có nhiều cấp học (gọi chung là trường trung học), bao gồm: tổ chức và quản lý nhà trường; cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và học sinh; cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học; quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội; hoạt động giáo dục và kết quả giáo dục.

HS trường THCS Lê Ngọc Hân (Hà Nội) trong buổi lễ quyên góp ủng hộ HS nghèo. Ảnh: gdtd.vn
HS trường THCS Lê Ngọc Hân (Hà Nội) trong buổi lễ quyên góp ủng hộ HS nghèo. Ảnh: gdtd.vn

Theo đó, các trường trung học cần đáp ứng 5 chuẩn: Tổ chức và quản lý nhà trường; Cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và học sinh; Cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học; Quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội; Hoạt động giáo dục và kết quả giáo dục.

Mỗi tiêu chuẩn bao gồm nhiều tiêu chí cụ thể. Trong đó, đáng lưu ý là việc nhà trường phải xây dựng được chiến lược phát triển; không có hiện tượng kỳ thị, vi phạm về giới, bạo lực trong nhà trường; khối phòng phục vụ học tập, trang thiết bị văn phòng phục vụ công tác quản lý, dạy và học theo quy định; thư viện, công trình vệ sinh, nhà để xe, hệ thống nước sạch, hệ thống thoát nước, thu gom rác đáp ứng yêu cầu của hoạt động giáo dục; tổ chức và hiệu quả hoạt động của Ban đại diện cha mẹ học sinh;

Đổi mới phương pháp dạy học nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh; thực hiện nhiệm vụ phổ cập giáo dục của địa phương; giáo dục, rèn luyện kỹ năng sống thông qua các hoạt động học tập, hoạt động tập thể và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho học sinh; học sinh tham gia giữ gìn vệ sinh môi trường lớp học, nhà trường…

Tiêu chuẩn đánh giá trường trung học là căn cứ để xác định nội dung đánh giá của các hoạt động: kiểm định chất lượng giáo dục trường trung học, công nhận trường trung học đạt chuẩn quốc gia. Đây cũng là căn cứ để công nhận trường trung học đạt tiêu chuẩn trường học thân thiện, học sinh tích cực; thanh tra toàn diện nhà trường.

Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 21/5/2012.

Lập Phương

Nguồn: http://gdtd.vn/channel/3222/201204/Truong-trung-hoc-can-dap-ung-5-chuan-1960554/

Hệ thống giáo dục phổ thông đã ảnh hưởng đến phân luồng

Posted: 12 Apr 2012 02:23 AM PDT


 

Sự việc một số trường THPT trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc dùng biện pháp "ép" những HS có học lực kém không thi ĐH nhằm thực hiện việc phân luồng ngay từ bậc phổ thông đã gây xôn xao dư luận. Lý do là thực hiện việc phân luồng học sinh ngay từ phổ thông.

Trao đổi với báo chí, ông Nguyễn Xuân Trường, Phó giám đốc Sở GD-ĐT Vĩnh Phúc cho biết: "Sở GD-ĐT có công văn gửi tất cả các trường THPT và trung tâm GDTX giới thiệu một số nội dung đề án của UBND tỉnh Vĩnh Phúc về dạy nghề, giải quyết việc làm giai đoạn 2011-2012. Việc giới thiệu đề án này của tỉnh chỉ nhằm thúc đẩy các trường làm tốt hơn công tác hướng nghiệp, phân luồng học sinh chứ không hề có bất cứ chỉ đạo nào mang tính bắt buộc".

Đối với việc phân luồng học sinh từ phổ thông, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình cho rằng: "Chúng ta nói rất nhiều đến chuyện phân luồng sau THCS và THPT, nhưng đến nay, hàng năm vẫn có 90% học sinh tốt nghiệp phổ thông chờ chực ở ngưỡng cửa đại học vì dạy nghề không đủ và không có sức hút. Rõ ràng, cùng với việc mở mang kinh tế, tạo thêm việc làm, rất cần nâng cấp hệ thống giáo dục nghề nghiệp đạt chất lượng cao trong đào tạo để thu hút thế hệ trẻ. Bên cạnh đó, về giáo dục đại học không thể cắt nghĩa nổi sự gia tăng ồ ạt về số lượng các trường trong mấy năm vừa qua. Chỉ từ năm 2006 đến 2010, chúng ta đã mở thêm 64 trường ĐH,CĐ, trong khi các trường hiện có vẫn thiếu giảng viên có trình độ trên đại học. Vậy làm gì có chất lượng đào tạo ở giáo dục đại học? ".

Còn theo GS Hoàng Tụy, cải cách mạnh mẽ hệ thống giáo dục phổ thông và dạy nghề. Đây chính là vấn đề giáo dục phải phù hợp với nhu cầu và khả năng của xã hội. Các doanh nghiệp ở ta thường phàn nàn gặp nhiều khó khăn khi tuyển nhân lực cần thiết vì trình độ, năng lực thực tế của sinh viên do các trường đào tạo ra quá thấp so với yêu cầu của họ. Trong khi đó, hàng năm có hàng chục vạn học sinh, sinh viên ra trường không tìm được việc làm thích hợp. Quá nhiều trường ĐH,CĐ kém chất lượng, nhưng rất ít trường trung cấp kỹ thuật. Cơ cấu đào tạo khiến trong nước rất thiếu công nhân lành nghề, rất nhiều cán bộ kỹ thuật trung cấp giỏi nhưng thừa kỹ sư, cán bộ quản lý tồi.

Cấu trúc lại hệ thống giáo dục

Theo bà Bình, vấn đề hết sức cấp thiết hiện nay là tình trạng mất cân đối giữa ba bộ phận chính của hệ thống giáo dục là giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Do đó, cần phải rà soát, xác định rõ vị trí và mục tiêu cụ thể của từng bộ phận, cũng như từng cấp học, từ đó cơ cấu lại hệ thống giáo dục nghĩa là điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của mỗi bộ phận và cả hệ thống. Giáo dục phổ thông hiện nay chất lượng yếu kém và cách tiến hành phổ cập còn nặng tính hình thức, nhà trường tiểu học và THCS chưa bảo đảm để mọi công dân đều đạt được một trình độ giáo dục tối thiểu cần thiết phù hợp với sự phát triển xã hội.

"Để giải quyết vấn đề này, nên chăng cấu trúc lại để tiểu học và THCS thành một tổng thể hoàn chỉnh gọi là giáo dục cơ sở, có tính chất bắt buộc đối với mọi công dân và không thu học phí? Còn sau giáo dục cơ sở, để thực hiện phân luồng, liệu có thể mở ra nhiều loại hình trung học, trong đó THPT được rút ngắn một năm so với hiện nay và tập trung chuẩn bị cho việc đào tạo ở cấp cao hơn" – bà Bình đề nghị.

GS Hoàng Tụy đưa ra biện pháp: "Sau THCS phần lớn học sinh sẽ vào trung học hướng nghiệp, chỉ một tỉ lệ nhỏ vào THPT. Mỗi loại trường này đều cung cấp cho học sinh một vốn văn hóa phổ quát đủ để sau này tiếp tục học lên cao hơn, đồng thời trung học hướng nghiệp được học kỹ về một số ngành nghề được lựa chọn. Còn THPT thì không phân ban cứng nhắc mà tạo điều kiện cho học sinh được học theo năng khiếu sở thích, nhờ đó nâng cao chất lượng đầu vào đại học, tạo điều kiện nâng cao chất lượng đại học. Như vậy, 12 năm học, học sinh trung học hướng nghiệp nếu ra đời thì đã có nghề để kiếm sống tốt, rồi sau đó học tiếp nữa khi có điều kiện, còn học sinh THPT sẽ có nhiều lựa chọn và cơ hội để có thể tiếp tục học đại học mà không bị cản bởi cánh cửa hẹp của đại học như hiện nay".

Hồng Hạnh

Nguồn: http://dantri.com.vn/c25/s25-584571/he-thong-giao-duc-pho-thong-da-anh-huong-den-phan-luong.htm

Không để HSSV nào phải bỏ học vì không có khả năng đóng học phí

Posted: 12 Apr 2012 02:17 AM PDT

(GDTĐ) – Hôm nay (10/4), Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã có công điện gửi Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Bộ trưởng Bộ GDĐT về việc hỗ trợ sinh viên khó khăn học ĐH, CĐ.

Công điện nêu rõ: Để thực hiện tốt chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện cho tất cả các học sinh, sinh viên đã trúng tuyển vào các trường ĐH, CĐ trong cả nước, nhưng có hoàn cảnh gia đình khó khăn có thể học ĐH và CĐ cho đến khi tốt nghiệp, không có học sinh đã trúng tuyển nhưng không được đi học hoặc sinh viên đang học phải bỏ học vì lý do không có khả năng đóng học phí và bảo đảm cuộc sống tối thiểu, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng Bộ GDĐT và Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khẩn trương rà soát, nắm chắc từng trường hợp cụ thể, có giải pháp hỗ trợ thiết thực, hiệu quả, không để trường hợp học sinh, sinh viên nào phải bỏ học, thôi học vì lý do không có khả năng đóng học phí và bảo đảm cuộc sống tối thiểu. Trường hợp có khó khăn, vướng mắc vượt thẩm quyền, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Bộ GDĐT thống kê cụ thể từng địa phương và từng trường số lượng học sinh đã trúng tuyển vào các trường đại học, cao đẳng nhưng không được đi học và số sinh viên đang học ở các trường đại học, cao đẳng phải bỏ học do khó khăn không có khả năng đóng học phí và bảo đảm cuộc sống tối thiểu, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

 

Hiếu Nguyễn

Nguồn: http://gdtd.vn/channel/3005/201204/Khong-de-HSSV-nao-phai-bo-hoc-vi-khong-co-kha-nang-dong-hoc-phi-1960539/

Comments